Đến nay, Việt Nam-Hoa Kỳ đã phối hợp xử lý làm sạch hơn 32 ha đất khu vực sân bay Đà Nẵng nhiễm dioxin.
Thông tin này được đưa ra tại hội thảo về kết quả hợp tác Việt Nam-Hoa Kỳ thực hiện dự án ô nhiễm chất độc dioxin khu vực sân bay Đà Nẵng, tổ chức ngày 6/11, tại Đà Nẵng.
Hội thảo do Văn phòng Cơ quan Thường trực Ban Chỉ đạo quốc gia khắc phục hậu quả bom mìn và chất độc hóa học sau chiến tranh ở Việt Nam (Văn phòng 701) phối hợp với Cơ quan Phát triển quốc tế Hoa Kỳ (USAID) tổ chức.
Khu vực sân bay Đà Nẵng là một trong những "điểm nóng" ô nhiễm dioxin tại Việt Nam.
Ngày 1/4/2011, Bộ Quốc phòng đã phê duyệt dự án Xử lý môi trường ô nhiễm dioxin tại sân bay Đà Nẵng, do Bộ Tư lệnh Quân chủng Phòng không-Không quân (chủ đầu tư) phối hợp cùng Cơ quan Phát triển quốc tế Hoa Kỳ thực hiện.
Tổng kinh phí thực hiện Dự án từ nguồn vốn đối ứng của Chính phủ Việt Nam là 60 tỷ đồng, nguồn vốn ODA không hoàn lại của Chính phủ Hoa Kỳ khoảng 110 triệu USD.
Dự án đã xử lý triệt để được khoảng 90.000m3 bùn đất nhiễm dioxin, cô lập an toàn khoảng 50.000m3 bùn đất ô nhiễm dioxin dưới ngưỡng cần xử lý; bàn giao 18,7 ha đất đã được xử lý và trong ngày 7/11/2018 sẽ bàn giao thêm 13,7 ha đất đã qua xử lý phục vụ mở rộng Sân bay quốc tế Đà Nẵng và phát triển kinh tế-xã hội của thành phố.
Phát biểu tại hội thảo, ông Thân Thành Công, Chánh Văn phòng 701 đánh giá dự án đã đạt mục tiêu đề ra, xử lý thành công đất và trầm tích nhiễm dioxin tại sân bay Đà Nẵng, giảm thiểu rủi ro phơi nhiễm cho con người, môi trường xung quanh.
Dự án đã mang lại hiệu quả và ý nghĩa trên nhiều lĩnh vực, cả về sức khỏe cộng đồng, môi trường, kinh tế, xã hội, để lại nhiều bài học kinh nghiệm trong việc quản lý, giám sát, vận hành, ứng dụng công nghệ trong dự án.
Những kết quả của dự án thể hiện cam kết của Hoa Kỳ phối hợp chặt chẽ với Việt Nam và sự mong mỏi nhiều năm của người dân Việt Nam để có một môi trường sống an toàn, không còn ô nhiễm chất độc dioxin sau chiến tranh.
Tại hội thảo, một số đại biểu cho rằng trong quá trình thực hiện dự án, vẫn còn những thách thức cần được quan tâm. Đó là phải điều chỉnh quy mô, khối lượng dự án do khảo sát ban đầu chưa kỹ; những thách thức kỹ thuật trong xử lý do điều kiện khí hậu và môi trường đặc thù của địa phương.
Bên cạnh đó, cần nghiên cứu xem xét các công nghệ một cách hệ thống và sử dụng tiêu chí lựa chọn để đảm bảo triển khai hiệu quả về kinh tế cho những dự án xử lý dioxin khác ở Việt Nam./.