Khu dự trữ sinh quyển của Việt Nam

Cập nhật: 30/07/2020
Khu dự trữ sinh quyển (DTSQ) là những khu vực hệ sinh thái bờ biển hoặc trên cạn giúp thúc đẩy các giải pháp điều hòa việc bảo tồn sự đa dạng sinh học (ĐDSH) với việc phát triển bền vững khu vực đó có giá trị nổi bật, được quốc tế công nhận. Về mặt phương pháp luận, khu DTSQ xem "Con người là một phần của sinh quyển", là "Công dân sinh thái". Việc thành lập các khu DTSQ thế giới là nhằm tạo ra các mô hình trình diễn, thể hiện mối quan hệ hài hòa giữa con người và thiên nhiên, cân bằng nhu cầu của con người ngày nay với thế hệ tương lai và tự nhiên (German Commission for UNESCO, 2015).

Khu DTSQ là một mô hình độc đáo với phương châm hài hoà giữa bảo tồn và phát triển thông qua đảm bảo thực hiện 3 chức năng gắn với 3 phân vùng: Vùng lõi- bảo tồn ĐDSH; Vùng đệm- phát triển kinh tế thân thiện với môi trường; Vùng chuyển tiếp- hỗ trợ nghiên cứu, giáo dục và đào tạo với sự tham gia của các bên: các ban ngành, kinh tế tư nhân, nghiên cứu, người dân địa phương.

Việt Nam có bao nhiêu khu DTSQ?

Cho đến nay, Việt Nam có 9 khu DTSQ được Chương trình con người và sinh quyển thế giới (MAB-UNESCO) công nhận, thuộc cả vùng đồng bằng, miền núi, ven biển và hải đảo, bao gồm: khu DTSQ rừng ngập mặn Cần Giờ (2000), khu DTSQ Quần đảo Cát Bà (2004), khu DTSQ châu thổ sông Hồng (2004), khu DTSQ ven biển và biển đảo Kiên Giang (2006), khu DTSQ miền tây Nghệ An (2007), khu DTSQ Mũi Cà Mau (2009), khu DTSQ Cù Lao Chàm - Hội An (2009), khu DTSQ Đồng Nai (2011), khu DTSQ Lang Biang (2015). Nếu so trong 9 nước có khu DTSQ ở khu vực Đông Nam Á, Việt Nam chỉ đứng sau Indonesia về số lượng (11 Khu).

Khu dự trữ sinh quyển Cù Lao Chàm- Nguồn internet

Tổng diện tích của 09 khu DTSQ của Việt Nam là hơn 4 triệu ha, chiếm khoảng 12,1% diện tích diện tự nhiên cả nước. Đây cũng là nơi sinh sống của khoảng 1,78 triệu người (Võ Thanh Sơn, et al., (2018). Riêng diện tích vùng lõi (chủ yếu là các VQG, KBT và rừng đặc dụng) chiếm 11% tổng diện tích của các khu DTSQ (khoảng 450.000ha), nơi đây tập trung đa dạng sinh học cao với sự phong phú các dịch vụ hệ sinh thái. Khu DTSQ nhỏ nhất là Quần đảo Cát Bà với 26.241 ha và lớn nhất là Tây Nghệ An với hơn 1.3 tr. ha.

Cơ cấu tổ chức của BQLSQ

BQL do một lãnh đạo cấp tỉnh hoặc thành phố làm trưởng ban, với các thành viên là lãnh đạo các sở, ban, ngành, UBND các huyện thuộc khu DTSQ và các bên có liên quan khác. Tùy theo điều kiện đặc thù của từng khu DTSQ, một số thành viên BQL là đại diện của các bên có liên quan khác tại địa phương cũng tham gia như: các nhà khoa học hoặc viện nghiên cứu (Cát Bà và Mũi Cà Mau), doanh nghiệp hoặc hiệp hội doanh nghiệp (Đồng Nai và Mũi Cà Mau), cơ quan đoàn thể (Đồng Nai). Riêng khu DTSQ miền tây Nghệ An, không có đại diện các tổ chức khác nằm trong BQL. Ban quản lý khu DTSQ Đồng Nai lại không có bất cứ đại diện của UBND và các sở, ban, ngành các tỉnh có liên quan tới khu DTSQ. Hiện tại, việc quản lý các khu DTSQ dựa trên sự hợp tác giữa Ủy ban Quốc gia Chương trình Con người và Sinh quyển (MAB Việt Nam) và BQL của các khu DTSQ.

Về cơ cấu tổ chức, các BQL khu DTSQ hiện chưa có mô hình tổ chức thống nhất. Mỗi địa phương hình thành bộ máy tổ chức quản lý khu DTSQ tùy thuộc tiếp cận của mình.

Chính sách về quản lý khu DTSQ

Công tác quản lý bảo tồn trong vùng lõi của khu DTSQ có nhiều thuận lợi vì Việt Nam đã xây dựng được một hệ thống thể chế, chính sách, pháp luật khá đồng bộ. Về luật pháp, Việt Nam đã ban hành Luật ĐDSH (2008), Luật Lâm nghiệp (2017), Luật Thủy sản (2017); Luật Bảo vệ môi trường (2014). Về chiến lược, Việt Nam đã có Chiến lược quốc gia về ĐDSH (2013), Quy hoạch tổng thể Bảo tồn ĐDSH đến năm 2020, định hướng đến năm 2030 (2014), Chiến lược Quản lý hệ thống rừng đặc dụng và khu bảo tồn (2014), Chiến lược Phát triển lâm nghiệp Việt Nam giai đoạn 2006-2020 (2007). Ở cấp độ cao hơn, Việt Nam cũng đã ban hành Định hướng Chiến lược Phát triển bền vững của Việt Nam (Chương trình Nghị sự 21 của Việt Nam), Chiến lược Phát triển bền vững giai đoạn 2011-2020, Chiến lược Bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030. Những chiến lược này đều có những hợp phần liên quan tới bảo tồn ĐDSH, gắn với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

Bộ TN&MT được giao nhiệm vụ làm đầu mối quốc gia, nhằm chỉ đạo, hướng dẫn việc lập hồ sơ đề cử công nhận và quản lý các khu DTSQ thế giới (Điều 2, mục 10, khoản l). Tuy nhiên, cho đến nay, vẫn chưa có các văn bản quy phạm pháp luật cụ thể về khu DTSQ được ban hành, đặc biệt liên quan tới việc tổ chức quản lý thống nhất các khu DTSQ ở Việt Nam cũng như định hướng cụ thể bằng văn bản cho sự phát triển hệ thống này trong tương lai.

Khắc phục và định hướng trong thời gian tới

Thực tế các khu DTSQ tại Việt Nam thời gian qua cho thấy, các khu DTSQ này nằm trong phạm vi một tỉnh hoặc liên tỉnh. Bộ máy quản lý, điều hành có tính chất kiêm nhiệm, tùy thuộc từng địa phương cụ thể, tổ chức quản lý không giống nhau, một số khu lấy bộ máy quản lý tại vùng lõi là các khu bảo tồn làm nòng cốt, một số khu có bộ phận độc lập kết hợp với BQL các khu bảo tồn. Thông thường, trưởng BQL khu DTSQ là lãnh đạo UBND tỉnh.

Hiện nay, chưa có văn bản nào hướng dẫn, quy định quản lý dành riêng cho các khu DTSQ. Nguồn kinh phí hoạt động, vận hành các khu DTSQ cũng chưa có quy định cụ thể. Thực tế hoạt động thời gian qua cho thấy, việc quản lý, vận hành các khu DTSQ có những thuận lợi và đạt được những kết quả nhất định, cụ thể: Nhận thức các cấp, ngành về vai trò, chức năng của khu DTSQ ngày càng được nâng cao; các khu DTSQ nhận được sự quan tâm của nhiều tổ chức quốc tế, dự án quốc tế, các nhà khoa học trong công tác quản lý tài nguyên thiên nhiên; Nhiều sáng kiến, mô hình bảo tồn thiên nhiên và ĐDSH; cải thiện sinh kế; phát triển du lịch sinh thái cộng đồng tại các khu DTSQ được triển khai thực hiện thành công, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế và công tác bảo tồn thiên nhiên và ĐDSH.

Tuy nhiên, bên cạnh đó, vẫn còn có nhiều khó khăn, thách thức được đặt ra. Bởi đây là cách tiếp cận mới, nhiều lĩnh vực và đa ngành nghề trong quản lý bền vững tài nguyên thiên nhiên của khu DTSQ, trong khi các quy định tổ chức bộ máy và hướng dẫn kỹ thuật quản lý chưa rõ ràng, thậm chí còn thiếu sáng tạo, nên việc phối hợp thực hiện giữa cán bộ các cấp, các ngành còn chưa chặt chẽ. Công tác quản lý khu DTSQ liên quan đến nhiều ngành, lĩnh vực, các thành viên ban quản lý hầu hết là cán bộ kiêm nhiệm, vì vậy chưa có nhiều tham mưu kịp thời, đầy đủ cho UBND tỉnh trong công tác quản lý, chỉ đạo; nguồn lực tài chính, kỹ thuật cho công tác quản lý, bảo tồn tại các khu DTSQ còn hạn chế.

Ở góc độ quản lý nhà nước, chỉ có vườn quốc gia, khu bảo tồn là có các cấp quản lý nhà nước từ địa phương tới Trung ương, còn các khu DTSQ ngoài nằm trong mạng lưới của MAP hay UNESCO, thì chưa có quy định cụ thể về quản lý nhà nước của Bộ, ngành nào. Mặt khác, địa bàn, diện tích các khu DTSQ thường rất lớn, điều kiện tự nhiên, xã hội phức tạp, bị nhiều áp lực do có nhiều hoạt động phát triển kinh tế, xã hội tác động ảnh hưởng trực tiếp đến công tác quản lý, cũng như hiện trạng tài nguyên thiên nhiên tại các khu DTSQ. Vấn đề tổ chức quản lý ở cấp độ khu DTSQ còn khó khăn hơn nhiều khi khu DTSQ đó là liên tỉnh, mỗi tỉnh lại có những cách tiếp cận riêng với phát triển và bảo tồn.

Về công tác thẩm định đánh giá tác động môi trường đối với các khu dự trữ sinh quyển: Hiện nay Bộ Tài nguyên và Môi trường đang xây dựng và hoàn thiện Dự thảo Luật Bảo vệ môi trường sửa đổi, trình Quốc hội Khóa XIV dự kiến thông qua vào cuối năm 2020. Theo đó, những dự án có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường cao, tác động lớn đến cảnh quan và môi trường như các dự án tác động đến khu DTSQ sẽ được thẩm định và đánh giá chặt chẽ hơn, sẽ có một chương đánh giá tác động đến cảnh quan và hệ sinh thái.

Trung tâm Truyền thông tài nguyên và môi trường

Nguồn: Báo Tài nguyên và Môi trường