Từ mấy năm nay, nhờ sử dụng đúng, hiệu quả nguồn ngân sách hỗ trợ từ dịch vụ môi trường rừng và Dự án KFW8 của Đức, Khu bảo tồn thiên nhiên Bát Xát đã bảo vệ tốt diện tích rừng đặc dụng, bảo tồn đa dạng sinh học và tạo sinh kế, nâng cao đời sống người dân nhận khoán bảo vệ rừng ở 5 xã của huyện vùng cao, biên giới Bát Xát (Lào Cai).
Tuần tra, bảo vệ rừng ở Khu bảo tồn thiên nhiên Bát Xát.
Khu bảo tồn thiên nhiên Bát Xát, có diện tích hơn 18 nghìn ha, trải dài trên 5 xã là: Y Tý, Dền Sáng, Sảng Ma Sáo, Trung Lèng Hồ và Nậm Pung.
Tại đây, đã phát hiện và tổng hợp được 976 loài thực vật, trong đó có 137 loài nguy cấp, quý hiếm, như: Hoàng liên gai, Kim tuyên tơ, Kiền lan sớm hoa to…
Về động vật, đã phát hiện 173 loài có xương sống, trong đó có 52 loài nguy cấp, quý hiếm có trong sách đỏ Việt Nam và Danh lục đỏ thế giới có giá trị bảo tồn cao, như: Cóc núi, Cóc sừng đỏ…
Bảo vệ rừng và đa dạng sinh học
Có dịp đi khảo sát rừng già nguyên sinh Y Tý, với những thân cây cổ thụ nhiều năm tuổi và hệ thực vật phong phú, đa tầng và đi sâu vào rừng đặc dụng ở Dền Sáng, Trung Lèng Hồ, Nậm Pung, chúng tôi thấy rõ hơn hiệu quả của công tác bảo vệ rừng. Khi ý thức và trách nhiệm của người dân được nâng lên, bởi họ được hưởng lợi trực tiếp từ rừng.
Hạt trưởng kiểm lâm, Trưởng Ban quản lý Khu bảo tồn thiên nhiên Bát Xát Ngô Kiên Trung cho biết, 2 nguồn kinh phí từ dịch vụ môi trường rừng và Dự án KFW8 của Cộng hòa liên bang Đức đã hỗ trợ đắc lực cho việc bảo vệ rừng, đa dạng sinh học và tạo sinh kế, cải thiện và nâng cao đời sống của người dân ở 5 xã, nhận khoán bảo vệ rừng với đơn vị.
Chi trả tiền dịch vụ môi trường rừng cho người dân ở Khu bảo tồn thiên nhiên Bát Xát.
Theo Chủ tịch tịch UBND xã Sàng Ma Sáo Lý A Khoa, toàn xã xây dựng 9 tổ bảo vệ rừng ở mỗi thôn bản, mỗi tổ có từ 7-8 thành viên, do bà con trong thôn bầu lên, gồm những người có sức khỏe, gương mẫu, có trách nhiệm và uy tín trong cộng đồng.
Tổ bảo vệ rừng có nhiệm vụ xây dựng kế hoạch tuần tra bảo vệ rừng định kỳ hằng tháng được chính quyền xã và Ban quản lý Khu bảo tồn thiên nhiên Bát Xát phê duyệt, sau đó cắt cử các thành viên thực hiện tuần rừng theo kế hoạch đó.
Tổ trưởng Tổ bảo vệ rừng thôn Khu Chu Phìn Tráng A De cho biết, thông thường mỗi thành viên trong tổ đi tuần rừng từ 2 lần trở lên/tháng, tổ trưởng theo dõi, chấm công từng thành viên, bảo đảm chi trả tiền công thực tế, minh bạch, công bằng theo hợp đồng nhận khoán bảo vệ rừng của thôn với Khu bảo tồn thiên nhiên Bát Xát, từ nguồn Quỹ chi trả dịch vụ môi trường rừng của tỉnh.
Trao đổi với chúng tôi, Hạt trưởng Hạt kiểm lâm, Trưởng Ban quản lý Khu bảo tồn thiên nhiên Bát Xát Ngô Kiên Trung cho biết, diện tích rừng đặc dụng hơn 18 nghìn ha, do đơn vị quản lý trải rộng ở 5 xã là: Y Tý, Dền Sáng, Sảng Ma Sáo, Trung Lèng Hồ và Nậm Pung. Để quản lý tốt rừng đặc dụng tại đây, đơn vị đã ký hợp đồng giao khoán bảo vệ rừng trực tiếp với 32 Tổ bảo vệ rừng ở tất cả các thôn, do bà con từng thôn bầu ra, với những điều khoản cụ thể, rõ ràng. Căn cứ vào kết quả tuần tra bảo vệ rừng thực tế ở các thôn, có chấm công và hậu kiểm chặt chẽ, Quỹ bảo vệ và phát triển rừng Lào Cai và Khu bảo tồn thiên nhiên Bát Xát chi trả tiền dịch vụ môi trường rừng, bình quân khoảng 6 tỷ đồng/năm, cho hàng nghìn hộ đồng bào dân tộc H’Mông, Dao, Giáy nhận bảo vệ rừng thông qua hợp đồng với các Tổ bảo vệ rừng thôn bản ở địa phương.
Bên cạnh đó, từ nguồn hỗ trợ của Dự án KFW8 do Chính phủ Cộng hòa Liên bang Đức thông qua Ngân hàng Tái thiết Đức (KfW) tài trợ. Dự án nhằm cải thiện đa dạng sinh học cho các khu bảo tồn; làm gia tăng giá trị kinh tế và sinh thái, tạo thu nhập trước mắt cho người dân; góp phần sử dụng bền vững nguồn tài nguyên thiên nhiên, thích ứng với biến đổi khí hậu và giảm phát thải CO2. Với khoảng 5 tỷ đồng/năm, từ nguồn vốn này, Khu bảo tồn thiên nhiên Bát Xát đã tập trung củng cố kiện toàn các tổ bảo vệ rừng, làm đường tuần tra rừng và nghiên cứu khoa học, bảo tồn đa dạng sinh học tại đây.
Theo Ban quản lý Khu bảo tồn thiên nhiên Bát Xát, đến nay đơn vị đã củng cố 32 tổ bảo vệ rừng cấp thôn, với 200 thành viên tham gia; giao khoán hơn 16 nghìn ha rừng đặc dụng, không để mất rừng.
Tạo sinh kế, cải thiện đời sống người dân nhận khoán bảo vệ rừng
Nói chuyện với chúng tôi, anh Ngô Kiên Trung bộc bạch, điều anh tâm đắc nhất là giữ được rừng nguyên vẹn thì được rất nhiều cái lợi vừa trước mắt, vừa lâu dài, rất bền vững. Lớp trẻ và du khách thành thị bây giờ rất thích đến khám phá rừng nguyên sinh Y Tý và nếp sống, bản sắc văn hóa ngàn đời của cư dân thiểu số bản địa vốn gắn chặt với rừng, văn hóa vùng cao rừng núi đặc sắc, riêng biệt. “Giữ rừng là giữ được vốn tài nguyên phát triển du lịch cộng đồng, du lịch trải nghiệm, kéo được du khách đến với mình”, anh Trung tâm sự.
Mua bếp gas cho người dân ở thôn Khu Chu Phìn, xã Sàng Ma Sáo (Bát Xát) từ nguồn tiền dịch vụ môi trường rừng.
Từ lâu, theo điều kiện tự nhiên và tập quán lâu đời, bà con người Dao, H’Mông, Giáy, Hà Nhì ở các xã thuộc Khu bảo tồn vẫn sử dụng củi làm chất đốt, phục vụ sinh hoạt hằng ngày, vừa tốn thời gian và công sức vừa khó bảo vệ rừng, nguy cơ gây cháy rừng cao, nhất là mùa hè khô nóng.
Từ thực tế đó, Khu bảo tồn thiên nhiên Bát Xát đã lên phương án vận động người dân sử dụng bếp gas thay đun nấu bằng củi. Thôn Khu Chu Phìn, xã Sàng Ma Sáo, có 147 hộ người H’Mông đều dùng bếp gas, tiện lợi và sạch sẽ, giảm hẳn việc phụ nữ vất vả vào rừng lấy củi, dành thời gian sản xuất và làm nghề thủ công, đem lại thu nhập cho gia đình.
Thì ra, bà con ở đây có cách làm rất hay, bầu ra Tổ bảo vệ rừng gồm 8 người có sức khỏe, trách nhiệm do Trưởng thôn Tráng A De làm tổ trưởng. Tổ bảo vệ rừng thay mặt thôn ký nhận khoán bảo vệ 356 ha rừng đặc dụng với Khu bảo tồn thiên nhiên Bát Xát. Cuối mỗi năm, Ban quản lý Khu bảo tồn và chính quyền xã Sàng Ma Sáo kiểm tra, xác nhận công tuần tra bảo vệ rừng và thực tế chất lượng rừng được giao khoán bảo vệ để nghiệm thu và chi trả cho cộng đồng thôn khoảng 200 triệu đồng từ nguồn vốn dịch vụ môi trường rừng.
Tính trung bình, mỗi năm bà con dân tộc thiểu số ở 5 xã nhận khoán bảo vệ rừng với Khu bảo tồn thiên nhiên Bát Xát và nhận về khoảng 6 tỷ đồng, góp phần tạo sinh kế và thu nhập, cải thiện và nâng cao đời sống của người dân nơi đây.
Bài và ảnh: Quốc Hồng