Đóng góp ý kiến xây dựng nền kinh tế biển xanh phục hồi, ổn định và phát triển sau đại dịch COVID-19 và ứng phó với biến đổi khí hậu, nhiều đại biểu Quốc hội Khóa XV cho rằng: Cần tập trung tổ chức thực hiện tốt Nghị quyết 36-NQ/TW về “Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 và các chương trình, kế hoạch đã được Chính phủ, các ban, bộ, ngành Trung ương và địa phương ban hành, đặc biệt quan tâm triển khai các nhiệm vụ cấp bách, trong đó có việc xây dựng Quy hoạch không gian biển quốc gia.
Tầm nhìn "tiến ra biển", làm giàu từ biển
Trao đổi với Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, đại biểu Quốc hội Tạ Đình Thi (Đoàn TP.Hà Nội), Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường cho biết, kinh tế biển đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Nhận thức được vị trí, vai trò và tầm quan trọng của biển, thời gian qua Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương, chính sách liên quan đến phát triển kinh tế biển gắn với bảo vệ chủ quyền biển, đảo hướng tới phát triển bền vững.
Theo đại biểu Tạ Đình Thi, sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh quan tâm đến biển, đảo và thể hiện tầm nhìn “tiến ra biển” để làm giàu từ biển và bảo vệ biển từ rất sớm. Bác Hồ đã chỉ rõ mối quan hệ giữa phát triển kinh tế biển và bảo vệ đất nước: “Đồng bằng là nhà, mà biển là cửa” hay “Ngày trước ta chỉ có đêm và rừng, ngày nay ta có ngày, có trời, có biển, bờ biển ta dài, tươi đẹp, ta phải giữ gìn lấy nó”.
Đại hội lần thứ VIII của Đảng (tháng 6/1996), lần đầu tiên Đảng ta bàn về phát triển toàn diện các lĩnh vực liên quan đến biển, đặc biệt là các giải pháp đẩy mạnh phát triển kinh tế biển gắn với bảo đảm quốc phòng - an ninh, bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo. Ngày 22/9/1997, Bộ Chính trị Khóa VIII ban hành Chỉ thị 20-CT/TƯ về “Đẩy mạnh phát triển kinh tế biển theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa”.
Việt Nam đã có chủ trương, chính sách liên quan đến phát triển kinh tế biển gắn với bảo vệ chủ quyền biển, đảo hướng tới phát triển bền vững.
Đặc biệt, để tiếp tục đẩy mạnh khai thác tiềm năng lợi thế các vùng biển Việt Nam cho phát triển kinh tế-xã hội, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khóa X đã ban hành Nghị quyết số 09-NQ/TW ngày 09/02/2007 về Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020 với mục tiêu tổng quát phấn đấu đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển, bảo đảm vững chắc quyền chủ quyền quốc gia trên biển, đảo, góp phần quan trọng vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đây là chủ trương lớn, phù hợp với xu thế chung của thế giới và đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc giai đoạn đổi mới và hội nhập.
Trên cơ sở tổng kết Nghị quyết số 09-NQ/TW, Hội nghị Trung ương 8 khóa XII đã thông qua Nghị quyết số 36-NQ/TW về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Quan điểm xuyên xuốt của Nghị quyết là phát triển bền vững kinh tế biển trên nền tảng tăng trưởng xanh, bảo tồn đa dạng sinh học, các hệ sinh thái biển; bảo đảm hài hoà giữa các hệ sinh thái kinh tế và tự nhiên, giữa bảo tồn và phát triển… phát huy tiềm năng, lợi thế của biển, tạo động lực phát triển kinh tế đất nước.
Cùng với đó, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã xác định kinh tế biển là một trong những nhiệm vụ, giải pháp quan trọng để đưa Việt Nam đến năm 2030 là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao.
“Như vậy, có thể thấy quan điểm về phát triển kinh tế biển xanh đã được tiếp thu, xây dựng và hoàn thiện khá sớm ở Việt Nam và thể hiện khá rõ trong các văn kiện khác nhau nêu trên của Đảng và Nhà nước ta”, đại biểu Tạ Đình Thi cho biết.
Khẳng định kinh tế biển có vai trò và là động lực quan trọng để phát triển kinh tế của đất nước, tuy nhiên đại biểu Tạ Đình Thi cũng cho rằng, quá trình phát triển kinh tế - xã hội cũng đã, đang và sẽ tiếp tục tạo ra các áp lực lên môi trường biển nước ta.
Trên cơ sở đó, đại biểu đoàn Hà Nội đã chỉ rõ 04 vấn đề nổi cộm hiện nay mà Việt Nam đang phải đối mặt, đó là: Vấn đề rác thải nhựa đại dương; sự cố tràn dầu trên biển; vấn đề kiểm soát các nguồn thải và biến đổi khí hậu, nước biển dâng.
Đối với vấn đề rác thải nhựa đại dương, đại biểu Tạ Đình Thi khẳng định, ô nhiễm chất thải nhựa ở biển là một trong những đe dọa lớn nhất của đại dương thế giới, đã và đang phá hoại các hoạt động kinh tế, xã hội tại các vùng biển và vùng bờ biển, như du lịch, nghỉ dưỡng, nghề cá và giao thông, môi trường, đa dạng sinh học và nguồn lợi cá biển, sức khỏe và sự an toàn của con người...
Theo UNEP, Việt Nam là một trong những quốc gia có lượng rác thải nhựa xả ra biển nhiều nhất trên thế giới, với khối lượng rác thải nhựa xả ra biển khoảng 0,28 – 0,73 triệu tấn/năm, tương đương 6% tổng lượng rác thải nhựa ra biển trên toàn thế giới. Việt Nam xếp thứ tư trong danh sách những nước làm phát sinh ô nhiễm nhựa biển trên toàn thế giới, sau Trung Quốc, Indonesia và Philippines.
Về sự cố tràn dầu trên biển, đại biểu đoàn TP.Hà Nội cho hay: Sự cố tràn dầu gây ảnh hưởng xấu không chỉ để lại hậu quả nặng nề đối với môi trường, đặc biệt là các hệ sinh thái rừng ngập mặn, cỏ biển, vùng triều bãi cát, đầm phá và các rạn san hô; tác động trực tiếp đến phát triển kinh tế biển như du lịch, đánh bắt và nuôi trồng thủy sản, tác động trực tiếp đến sinh kế của người dân.
"Ô nhiễm dầu làm giảm sức chống đỡ, tính linh hoạt và khả năng khôi phục của các hệ sinh thái từ tác động của các tai biến. Khi chảy loang trên mặt nước, dầu tạo thành váng và bị biến đổi tính chất làm tổn thương các hệ sinh thái. Các màng dầu làm giảm khả năng trao đổi oxy giữa không khí và nước. Trong số các sự cố môi trường biển, sự cố tràn dầu xuất hiện nhiều nhất trên vùng biển Việt Nam. Tuy nhiên, hầu hết các sự cố tràn dầu trên biển Việt Nam đều là các sự cố nhỏ, được ứng phó, khắc phục và giải quyết hậu quả kịp thời. Thống kê chưa đầy đủ cho thấy, từ năm 1989 đến nay cả nước có hơn 100 vụ tràn dầu do tai nạn hàng hải, tràn ra biển từ vài chục đến hàng trăm tấn dầu", đại biểu Tạ Đình Thi cho biết.
Đối với vấn đề kiểm soát các nguồn thải, theo đại biểu Tạ Đình Thi, hầu hết các chất gây ô nhiễm trên biển đều từ đất liền theo sông đổ ra biển dẫn đến ô nhiễm cục bộ ở một số khu vực ven bờ.
Theo báo cáo của 28 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có biển, đã thống kê được được 647 đơn vị, doanh nghiệp có hoạt động xả thải trực tiếp ra với tổng lưu lượng khoảng 88.667,902 m3/ngày đêm. Trong tổng lượng nước thải phát sinh ra các lưu vực, thì nước thải sinh hoạt và nước thải công nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng lớn nhất. Khoảng 13% nước nước thải sinh hoạt đô thị được thu gom, xử lý đạt tiêu chuẩn quy định, khoảng 89,28% khu công nghiệp, 16,5% cụm công nghiệp có hệ thống xử lý nước thải tập trung (ISPONRE, 2020).
"Việc xả thải ra biển của các khu kinh tế, khu công nghiệp, cụm công nghiệp, nhà máy, cơ sở sản xuất kinh doanh đang diễn ra hàng ngày với lưu lượng xả thải ngày một tăng và diễn ra phức tạp, khó kiểm soát. Các thiết bị quan trắc, giám sát còn thiếu, lạc hậu và đã xảy ra nhiều vụ việc vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường, xả thải ra biển chưa qua xử lý, gây ô nhiễm môi trường biển. Ngoài ra, có các hoạt động dầu khí, khai thác khoáng sản biển, vận tải biển, nuôi trồng thủy sản cũng làm tăng đáng kể lượng chất thải", đại biểu nêu rõ.
Kinh tế biển xanh không chỉ duy trì và gia tăng nguồn vốn tự nhiên mà còn làm gia tăng sản phẩm quốc nội của đất nước.
Cuối cùng là thách thức về biến đổi khí hậu (BĐKH) và nước biển dâng. Theo đại biểu Tạ Đình Thi, Việt Nam là một trong những quốc gia bị ảnh hưởng nặng nề nhất từ BĐKH và nước biển dâng, đặc biệt là những vùng đất ngập nước ven biển như Cà Mau, TP. Hồ Chí Minh, Vũng Tàu, Nam Định… BĐKH tác động tới các hệ sinh thái theo nhiều cách khác nhau; nhiệt độ tăng sẽ tác động tới các loài động, thực vật nhạy cảm với nhiệt độ; lượng mưa giảm sẽ thu hẹp diện tích đất ngập nước ven biển, làm tăng phát thải khí nhà kính vào khí quyển do sự phân hủy của các chất hữu cơ, than bùn...
Để giải quyết những vấn đề nêu trên, đại biểu nhấn mạnh: Cần tập trung triển khai, thực hiện tốt Nghị quyết số 36-NQ/TW và các chương trình, kế hoạch đã được Chính phủ, các ban, bộ, ngành Trung ương và địa phương ban hành, đặc biệt quan tâm triển khai các nhiệm vụ cấp bách, trong đó có việc xây dựng Quy hoạch không gian biển quốc gia.
Đưa ra những định hướng quy hoạch không gian phát triển các ngành, lĩnh vực kinh tế biển giai đoạn 2021 – 2030, đại biểu cho rằng, cần ưu tiên phát triển các lĩnh vực kinh tế biển đã được đề ra trong Nghị quyết số 36-NQ/TW, đặc biệt tập trung vào du lịch biển, kinh tế hàng hải, khai thác dầu, khí, nuôi biển, điện gió. Bên cạnh đó, về phân vùng không gian biển, quy hoạch không gian biển là quy hoạch khung, mang tính định hướng làm cơ sở để các ngành và địa phương xây dựng quy hoạch chi tiết cho các mục đích sử dụng biển cụ thể nhằm đạt được các mục đích chung của kinh tế biển xanh .
“Quy hoạch không gian biển quốc gia giai đoạn 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đang được triển khai xây dựng và dự kiến trình Quốc hội khóa XV thông qua tại kỳ họp thứ 4, tháng 10/2022”, đại biểu Tạ Đình Thi cho biết.
Nghị quyết 36 - hiện thực hóa mục tiêu "khát vọng việt nam"
Trao đổi riêng với Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, đại biểu Quốc hội Khóa XV, nguyên Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam, Phó Chủ tịch thường trực Hội Nghề cá Việt Nam Nguyễn Chu Hồi nêu rõ: Thực hiện tốt Nghị quyết 36-NQ/TW sẽ tạo nền tảng để xây dựng, phát triển đất nước trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển, góp phần đạt được “Khát vọng Việt Nam” đến 2045 - Quốc gia hùng cường, phồn vinh và hạnh phúc theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng.
Đại biểu Quốc hội Khóa XV, nguyên Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam, Phó Chủ tịch thường trực Hội Nghề cá Việt Nam Nguyễn Chu Hồi.
Đại biểu Quốc hội Nguyễn Chu Hồi cũng nhấn mạnh: Nước ta có lợi thế vượt trội về biển với nhiều giá trị tầm cỡ quốc gia và toàn cầu, một số đạt giá trị ngoại hạng toàn cầu, được các tổ chức quốc tế vinh danh. Đó là tiền đề để Việt Nam phát triển một nền kinh tế biển mạnh và bền vững.
“Nghị quyết 36 đã chỉ ra cách làm sao cho “có của ăn, của để”, đóng góp thực chất vào bảo đảm môi trường hòa bình ở Biển Đông và cải thiện sinh kế của người dân ven biển, trên đảo, tạo động lực quan trọng để phát triển kinh tế đất nước”, đại biểu Nguyễn Chu Hồi cho biết.
Tuy nhiên, theo đại biểu tài nguyên biển hiện đang bị khai thác quá mức và môi trường biển bị đầu độc...đã gây hậu quả nghiêm trọng tới môi trường, đa dạng sinh học và các hệ sinh thái biển. “Các vấn đề bức xúc này nếu chậm được khắc phục chắc chắn sẽ ảnh hưởng xấu đến mục tiêu phát triển bền vững kinh tế biển đất nước theo tinh thần 36-NQ/TW”, đại biểu Nguyễn Chu Hồi khẳng định.
Đại biểu cũng cho rằng, các hậu quả từ phát triển nói trên không chỉ làm nảy sinh các chồng chéo, xung đột trong sử dụng không gian biển – ven biển, mà còn làm cường hóa tính dễ bị tổn thương, dẫn đến giảm khả năng chống chịu trước các tác động của biến đổi khí hậu, nước biển dâng. Điều đó đặt ra nhu cầu và yêu cầu phải có các giải pháp phòng ngừa, giảm thiểu và thích ứng - giải pháp xanh ở các cấp độ quốc gia, tỉnh và cộng đồng.
“Trong số các giải pháp thì quy hoạch không gian biển (QHKGB) và tiếp cận kinh tế tuần hoàn, cũng như tăng cường kiểm soát của nhà nước cần được chú ý thúc đẩy”, đại biểu Quốc hội Khóa XV nêu rõ.
Đại biểu cũng nhấn mạnh, hiện QHKGB đang được triển khai ở cấp quốc gia theo tinh thần của Luật Quy hoạch 2017. “Cấp độ tỉnh và thấp hơn không áp dụng công cụ này. Đây cũng là điều bất cập khiến các tỉnh/thành phố trung ương ven biển “lúng túng” trong quá trình xây dựng quy hoạch vì cùng với việc định hướng phát triển phải bố trí không gian biển cho từng hành động phát triển giai đoạn 2021 - 2030. Trong khi QHKGB quốc gia không thể chi tiết đến mức địa phương cần, nên các địa phương cần chủ động tiến hành phân vùng sử dụng không gian biển theo chức năng, thẩm quyền quản lý của địa phương”, đại biểu chia sẻ.
Bởi vậy, đại biểu đề xuất cần lồng ghép các cân nhắc về vấn đề biến đổi khí hậu, nước biển dâng và kết quả phân tích xung đột lợi ích trong sử dụng không gian biển hiện nay vào phương án QHKGB quốc gia. Đặc biệt, cần chú ý ưu tiên các khu vực biển có tiềm năng bảo tồn và phát triển ngành/lĩnh vực kinh tế biển dựa vào bảo tồn.
Cho rằng phát triển kinh tế biển xanh là xu hướng của quốc tế, trong đó có Việt Nam, đại biểu Nguyễn Chu Hồi cũng chỉ rõ: Kinh tế biển xanh không chỉ duy trì và gia tăng nguồn vốn tự nhiên mà còn làm gia tăng sản phẩm quốc nội (GDP). Kinh tế biển xanh góp phần củng cố tăng trưởng kinh tế cho người nghèo thông qua việc bảo vệ và tích lũy vốn tự nhiên, cũng như nguồn sinh kế cho cộng đồng địa phương.
Bởi vậy, kinh nghiệm chung để đưa Việt Nam chuyển tiếp sang nền kinh tế biển xanh là cần nỗ lực liên kết của các nhà (Nhà quản lý, nhà đầu tư, nhà nghiên cứu, doanh nghiệp, người sản xuất và cộng đồng địa phương); đổi mới tư duy, thay đổi nhận thức và thúc đẩy sáng tạo công nghệ mới, ít carbon và các chính sách khuyến khích là các ngoại lực thúc đẩy chuyển tiếp sang nền kinh tế xanh, tuần hoàn.
“Áp lực của yêu cầu thị trường, người sử dụng và xã hội là động lực tích cực điều khiển sự chuyển tiếp sang mô hình kinh tế biển xanh và bền vững. Cùng với đó, cơ chế hỗ trợ tài chính, tư vấn công nghệ và quản lý cho các doanh nghiệp biển vừa và nhỏ liên kết chuỗi với nhau là rất cần thiết’, đại biểu Nguyễn Chu Hồi cho biết.
Trưởng đoàn Đại biểu Quốc hội Khóa XV, Bí thư Tỉnh ủy tỉnh Phú Yên Phạm Đại Dương.
Ở khía cạnh địa phương, Trưởng đoàn Đại biểu Quốc hội, Bí thư Tỉnh ủy tỉnh Phú Yên Phạm Đại Dương cho rằng, Nghị quyết 36-NQ/TW về “Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đã xác định rõ quan điểm, mục tiêu, các chủ trương lớn, khâu đột phá và các giải pháp chủ yếu trong phát triển kinh tế biển, để đến năm 2045 “Việt Nam trở thành quốc gia biển mạnh, phát triển bền vững, thịnh vượng, an ninh, an toàn; kinh tế biển đóng góp quan trọng vào nền kinh tế đất nước, góp phần xây dựng nước ta thành nước công nghiệp hiện đại theo định hướng xã hội chủ nghĩa; tham gia chủ động và có trách nhiệm vào giải quyết các vấn đề quốc tế và khu vực về biển và đại dương.”
“Nghị quyết là cơ sở quan trọng để các địa phương ven biển như tỉnh Phú Yên lãnh đạo, chỉ đạo phát triển bền vững kinh tế biển hiệu quả hơn, đồng bộ hơn. Đến nay, sau hơn 3 năm triển khai, kinh tế biển cả nước nói chung, Phú Yên nói riêng đã có được những sự phát triển quan trọng, tạo ra được những động lực phát triển cho từng địa phương, cho cả nước", đại biểu Khóa XV cho biết.
Bên cạnh những kết quả đạt được, đại biểu Quốc hội Khóa XV, Bí thư Tỉnh ủy tỉnh Phú Yên cũng nêu rõ: Việc phát triển kinh tế biển ở các địa phương vẫn còn những hạn chế. Từ những hạn chế này đã, đang và sẽ tiếp tục ảnh hưởng đến mục tiêu phát triển kinh tế biển bền vững của từng địa phương, của cả nước, và trực tiếp ảnh hưởng đến mục tiêu tăng trưởng của các khu vực ven biển.
Bởi vậy, trong thời gian tới cần phát triển kinh tế biển mạnh mẽ hơn, bền vững hơn, nhằm thúc đẩy 28 địa phương ven biển nói riêng, cả nước nói chung vươn lên mạnh mẽ./.
(Còn nữa)
Bích Liên