Kinh nghiệm lịch sử đã chứng minh "hướng ra biển là thịnh vượng"... Bởi vậy, việc hướng tới một nền kinh tế biển xanh trên cơ sở bảo tồn và phát huy các "nguồn vốn biển tự nhiên", đặc biệt là các nguồn tái tạo năng lượng gió, nuôi biển, du lịch sinh thái... đang được xem là giải pháp căn cơ, lâu dài và bền vững đối với nhiều quốc gia có biển, trong đó có Việt Nam.
Trong bối cảnh mới, trước xu thế toàn cầu hóa và khu vực hóa mạnh mẽ, các nước ngày càng quan tâm đến chiến lược phát triển nói chung, chiến lược biển nói riêng. Trong bối cảnh đó, Việt Nam có tư duy, nhận thức mới về phát triển kinh tế biển gắn với khai thác, bảo tồn những giá trị mà biển mang lại.
Hướng ra biển là thịnh vượng
Khẳng định tầm quan trọng của biển, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường (TN&MT) Trần Hồng Hà cho hay: Hàng nghìn năm qua, biển đã gắn liền với lịch sử dựng nước và giữ nước, gắn bó mật thiết với đời sống của người dân, biển không chỉ mang lại nguồn lợi vật chất mà còn làm giàu thêm vốn văn hóa và cuộc sống tinh thần của người dân trên khắp mọi miền Tổ quốc.
Trong kháng chiến cứu nước, biển chính là một tuyến đường huyết mạch và trong thời bình, biển chính là cửa ngõ để Việt Nam vươn ra thế giới. Với ý nghĩa đó, Đảng và Nhà nước luôn quan tâm và sớm đề ra nhiều chủ trương lớn, chính sách quan trọng về phát triển bền vững biển, đảo cũng như bảo vệ màu xanh của biển.
Để xây dựng nền kinh tế biển xanh, thích ứng với biến đổi khí hậu, cần thống nhất trong nhận thức và hành động để ứng xử có trách nhiệm với biển và đại dương.
Tuy nhiên, Bộ trưởng cũng chỉ rõ: Đại dương của chúng ta hiện đang đối mặt với những nguy cơ chưa từng có do tác động của biến đổi khí hậu, nước biển dâng, các hoạt động khai thác tài nguyên thiếu bền vững, ô nhiễm môi trường và suy giảm hệ sinh thái biển.
Theo cảnh báo của Liên hợp quốc, 90% quần thể cá lớn bị cạn kiệt và 50% rạn san hô bị phá hủy; ô nhiễm rác thải nhựa đã chạm đến nơi sâu nhất trong lòng đại dương và con người đang lấy đi từ đại dương nhiều hơn những gì có thể được bổ sung.
Trước thực trạng trên, để xây dựng một nền kinh tế biển xanh, thích ứng với biến đổi khí hậu, Bộ trưởng đề nghị cần thống nhất trong nhận thức và hành động để ứng xử một cách có trách nhiệm với biển và đại dương theo chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước trên cơ sở luật pháp quốc tế, coi đây là tiêu chuẩn về đạo đức, văn hóa của mỗi cộng đồng, doanh nghiệp và người dân; thúc đẩy hơn nữa việc phát triển các cộng đồng văn minh sinh thái biển. Thực hiện quản lý, bảo vệ và phát triển bền vững biển và hải đảo, phát triển các ngành kinh tế biển nhằm thu hút mạnh hơn các nguồn lực đầu tư; chú trọng phát triển nuôi biển xa bờ; đẩy mạnh nuôi trồng và khai thác có trách nhiệm tại các vùng biển xa bờ và viễn dương phù hợp với từng vùng biển, khả năng phục hồi của hệ sinh thái.
Bên cạnh đó, Bộ trưởng cũng đề nghị các địa phương có biển cần phát triển các khu bảo tồn biển tại các đảo tiền tiêu, kết hợp bảo tồn đa dạng sinh học biển và khẳng định chủ quyền quốc gia trên biển; khuyến khích sự tham gia của toàn xã hội vào công tác bảo tồn đa dạng sinh học biển, phục hồi các hệ sinh thái biển, đặc biệt là các rạn san hô, thảm cỏ biển, rừng ngập mặn, rừng phòng hộ ven biển. Xử lý tốt các nguồn gây ô nhiễm môi trường biển và đại dương từ đất liền, nhất là rác thải nhựa, thông qua việc tăng cường kiểm soát việc thu gom, vận chuyển, xử lý trên đất liền, khu vực ven biển và các đảo; tăng cường sức chống chịu và khả năng thích ứng với những tác động tiêu cực do biến đổi khí hậu, nước biển dâng gây ra.
Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Trần Hồng Hà.
Cùng với đó, Bộ trưởng nêu rõ, xu thế của thế giới hậu COVID-19 sẽ là tăng trưởng xanh, phát triển kinh tế tuần hoàn, kinh tế số. Theo đó, một trong những hoạt động được Bộ TN&MT chú trọng trong năm 2022 là tăng cường hợp tác quốc tế, nhất là ngoại giao về khí hậu, môi trường, chia sẻ khai thác tài nguyên nước xuyên biên giới, tài nguyên biển; phát huy nội lực, tranh thủ hỗ trợ quốc tế để thực hiện các cam kết của Việt Nam; khuyến khích, huy động cộng đồng doanh nghiệp, các tổ chức, cá nhân tăng cường đầu tư vào phát triển kinh tế tuần hoàn.
Nhấn mạnh với vai trò là Cơ quan thường trực Ủy ban chỉ đạo quốc gia về thực hiện Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam, Bộ trưởng cho biết, Bộ TN&MT sẽ tích cực, chủ động phối hợp chặt chẽ với các cơ quan liên trong thực hiện thực chất, hiệu quả các nhiệm vụ liên quan đến phát triển bền vững kinh tế biển trên tinh thần độc lập, tự chủ.
Khẳng định thế kỷ XXI được xem là “Thế kỷ của đại dương”, Thứ trưởng Bộ TN&MT Lê Minh Ngân cho biết: Biển đóng vai trò đặc biệt quan trọng đối với phát triển kinh tế - xã hội cũng như vấn đề an ninh quốc gia. Kinh tế biển, các vùng biển, ven biển đang trở thành động lực phát triển đất nước hiện đóng góp khoảng 3 nghìn tỷ USD mỗi năm, tức 5%. GDP của thế giới bao gồm các ngành chính là dầu khí, vận tải biển, cảng, năng lượng tái tạo, thủy sản, hệ sinh thái biển và du lịch biển.
Tại Việt Nam, kinh nghiệm lịch sử cho chúng ta thấy "hướng ra biển là thịnh vượng". Đặc biệt, Nghị quyết số 36-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương và Nghị quyết số 26/NQ-CP của Chính phủ cũng đã thể hiện tầm nhìn chiến lược của Đảng, Nhà nước ta trong xu thế phát triển chung toàn cầu.
Với ý nghĩ đó, Thứ trưởng Lê Minh Ngân cho rằng cần tập trung vào 03 khâu đột phá nêu trong Chỉ thị số 31/CT-TTg của Chính phủ về đổi mới và tăng cường tổ chức thực hiện Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 gồm: Thể chế; khoa học - công nghệ và nhân lực; kết cấu hạ tầng nhằm tạo xung lực cho kinh tế biển Việt Nam.
Thứ trưởng cũng nêu rõ cần kiến tạo môi trường chính sách, pháp lý cho nền kinh tế biển bền vững, kinh tế xanh lam để khai thác, sử dụng hiệu quả tài nguyên, bảo vệ môi trường, phát triển bền vững kinh tế biển…Khẩn trương triển khai thực hiện các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch liên quan đến biển và hải đảo, phát triển kinh tế biển, trọng tâm là Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050.
Bên cạnh đó, cần khuyến khích đầu tư vào nghiên cứu, phát triển công nghệ, chuyển giao công nghệ, nâng cao năng lực; thực hiện các dự án thí điểm để tiếp cận tất cả các nguồn năng lượng tái tạo biển, bao gồm năng lượng gió, sóng, thủy triều, dòng chảy, nhiệt và năng lượng mặt trời, nhằm phát huy tối đa tiềm năng về năng lượng tái tạo biển của Việt Nam. Tăng cường hợp tác về quản lý, giám sát và giải quyết ô nhiễm môi trường các vùng biển; giảm đáng kể ô nhiễm môi trường biển từ các hoạt động trên đất liền cũng như ô nhiễm từ tàu và ngư cụ thải bỏ; thúc đẩy bảo vệ đa dạng sinh học, các hệ sinh thái và rạn san hô biển phù hợp với xu thế quốc tế…
Theo Thứ trưởng, đại dịch COVID-19 trong thời gian qua có thể làm chậm nhịp trong thực hiện các mục tiêu và khâu đột phá trong Nghị quyết số 36. “Nhưng chúng ta có thể tin tưởng rằng với những kết quả bước đầu đã đạt được, Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam sẽ tiếp tục được triển khai thực hiện hiệu quả hơn nữa trong thời gian tới”, Thứ trưởng nêu rõ.
Nghiên cứu thành lập quỹ phát triển kinh tế biển xanh
Chia sẻ với Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam về giải pháp phát triển kinh tế biển xanh, bà Phạm Thu Hằng, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam cho biết: Ngày nay, các quốc gia trên thế giới đều đặt mục tiêu phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường và đảm bảo công bằng xã hội.
Hướng tới phát triển bền vững, Liên hợp quốc đã đề ra 17 mục tiêu toàn cầu, trong đó mục tiêu số 14 về bảo tồn và sử dụng bền vững các đại dương, biển và nguồn lợi biển để phát triển bền vững các vùng biển và đại dương.
Việc chuyển đổi sang “mô hình kinh tế biển xanh” trên cơ sở bảo tồn và phát huy các “nguồn vốn biển tự nhiên”, đặc biệt là các nguồn tái tạo như năng lượng gió, nuôi biển, du lịch sinh thái…đang được xem là một giải pháp căn cơ, lâu dài và bền vững đối với nhiều quốc gia có biển.
Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Biển và Hải đảo cũng cho rằng: Tài nguyên biển, môi trường, hệ sinh thái biển… là những nguồn “vốn biển tự nhiên” quan trọng, là đầu vào cho phát triển kinh tế biển. Vì vậy, không thể đánh đổi môi trường lấy phát triển kinh tế bằng mọi giá mà cần xem xét trong tổng thể hài hòa giữa lợi ích kinh tế, đảm bảo cân bằng giữa phát triển và bảo tồn biển, đặc biệt là môi trường và các hệ sinh thái biển.
Cho rằng, đại dịch COVID-19 đã tác động nghiêm trọng trên toàn thế giới và kinh tế biển cũng không phải là ngoại lệ, bà Phạm Thu Hằng cho biết: Đại dịch đã khiến cho nhiều nền kinh tế suy thoái nghiêm trọng cũng như đã gây ra những khó khăn cho việc chuyển đổi về mô hình sản xuất và tiêu dùng trên toàn thế giới. Việc đóng cửa cảng, hạn chế đi lại và gián đoạn chuỗi cung ứng đã làm gián đoạn các ngành, lĩnh vực kinh tế biển như vận tải biển, du lịch biển và nghề cá... đã và đang làm chậm cuộc chiến chống rác thải nhựa của các quốc gia trên toàn thế giới.
Việt Nam là một trong số nhiều quốc gia trên thế giới chịu ảnh hưởng của đại dịch. Ngoài lĩnh vực y tế và kinh tế bị ảnh hưởng trực tiếp thì lĩnh vực bảo vệ môi trường cũng chịu ảnh hưởng không hề nhỏ, trong đó có nhiều nguyên nhân liên quan đến hành vi sử dụng các sản phẩm nhựa sử dụng 01 lần và gia tăng lượng chất thải nhựa y tế.
”Thời gian tới, để triển khai thực hiện tốt Nghị quyết số 36-NQ/TW của Đảng và Nghị quyết số 26/NQ-CP của Chính phủ trong bối cảnh hậu đại dịch COVID-19, khi tốc độ phục hồi kinh tế, thị trường toàn cầu còn chậm, thì việc đầu tư phát triển kinh tế biển xanh cần có trọng tâm, trọng điểm”, bà Phạm Thu Hằng cho biết.
Cũng theo bà Phạm Thu Hằng, giai đoạn 2022 – 2025, chúng ta cần ưu tiên vào các lĩnh vực ít bị tác động bởi COVID-19 và tránh làm gián đoạn chuỗi cung ứng nhằm tạo nền tảng hướng đến năm 2030 như: Nghiên cứu thành lập Quỹ hoặc Chương trình kinh tế biển xanh để ưu tiên đầu tư phục hồi các ngành, nghề và khu vực kinh tế biển. Ưu tiên đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng ven biển, tăng sức chống chịu với các tác động của biến đổi khí hậu và tạo cơ sở, động lực phát triển kinh tế-xã hội và bảo vệ môi trường, hệ sinh thái biển. Đồng thời, ngành du lịch phối hợp với ngành y tế nghiên cứu đón khách du lịch quốc tế và trong nước an toàn.
Phát triển kinh tế biển xanh cần có trọng tâm, trọng điểm để tiến tới phát triển bền vững đất nước.
Đầu tư phục hồi các ngành, nghề, khu vực kinh tế biển
Đánh giá thực trạng phát triển bền vững khu kinh tế ven biển và khẳng định kinh tế biển xanh là nhiệm vụ tất yếu trong giai đoạn hiện nay, ông Đặng Hoàng An, Thứ trưởng Bộ Công Thương, cho biết: Thời gian qua, công nghiệp ven biển Việt Nam đóng vai trò quan trọng. Trong đó, công nghiệp đóng tàu đang phát triển cả về quy mô và kỹ thuật công nghệ. Năng lực đóng mới các loại tàu biển đã phát triển nhanh, các tàu có tải trọng lớn, tàu chuyên dụng, yêu cầu tính năng kỹ thuật cao. Việt Nam đã hình thành trung tâm, cơ sở đóng tàu có quy mô vừa và lớn tại các khu vực: Hải Phòng, Quảng Ninh, Bà Rịa - Vũng Tàu, Thành phố Hồ Chí Minh, Khánh Hòa, Thành phố Đà Nẵng.
Cùng với đó, các ngành công nghiệp ven biển như công nghệ luyện cán thép, cơ khí, điện tử, công nghiệp chế biến đang phát triển khá mạnh, chủ yếu tập trung ở khu công nghiệp, khu kinh tế ven biển.
Để triển khai giải pháp phát triển kinh tế biển bền vững cần xây dựng, hoàn thiện Đề án phát triển điện khí, năng lượng tái tạo tại vùng biển, ven biển và hải đảo đến năm 2030.
Đặc biệt, công nghiệp năng lượng có bước phát triển mạnh trong những năm gần đây. Nhiều nhà máy quy mô công suất lớn đang hoạt động và đang triển khai xây dựng về nhiệt điện, điện gió, mặt trời chủ yếu tập trung ở khu ven biển. Một số nhà máy sản xuất thiết bị năng lượng tái tạo đã được đầu tư ở khu vực ven biển như: Hải Phòng, Quảng Nam, Bà Rịa- Vũng Tàu v.v…
Với những ưu thế trên, để triển khai hiệu quả các giải pháp phát triển kinh tế biển trong thời gian tới, Thứ trưởng Bộ Công Thương cho rằng, cần xây dựng, hoàn thiện Đề án phát triển điện khí, năng lượng tái tạo tại vùng biển, ven biển và hải đảo đến năm 2030 trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Xây dựng các cơ chế, chính sách về năng lượng thúc đẩy phát triển điện khí, năng lượng tái tạo và mở rộng ứng dụng năng lượng tái tạo tại các khu vực ven biển, hải đảo đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
Đồng thời, nghiên cứu, quy hoạch một số trung tâm năng lượng tái tạo tại các vùng và các địa phương có lợi thế và cơ chế ưu đãi để thúc đẩy phát triển các trung tâm năng lượng tái tạo.
Còn theo ông Nguyễn Xuân Sang, Thứ trưởng Bộ Giao thông Vận tải, phát triển kinh tế hàng hải - một lĩnh vực kinh tế giao thông vận tải theo thứ tự ưu tiên số hai trong sáu lĩnh vực kinh tế biển, trong đó trọng tâm là khai thác có hiệu quả các cảng biển và dịch vụ vận tải biển.
Trong nền kinh tế biển thì vận tải biển đóng vai trò ngày càng to lớn với trên 300 triệu tấn mỗi năm, chiếm 21,7% tổng sản lượng luân chuyển hàng hóa. Nếu tính về số km thì vận tải biển chiếm đến 52%.
Về đường bộ ven biển, hiện nay 775 km đã xây dựng được 80% từ vốn trung ương; còn lại địa phương 2.217 km đã xây dựng được 800 km, đạt 40% kế hoạch. Trong tương lai, hệ thống giao thông trục dọc, gồm: đường ven biển, Quốc lộ 1, cao tốc và đường Hồ Chí Minh sẽ mở ra hàng loạt đô thị biển, thúc đẩy du lịch biển, đánh bắt hải sản, xử lý thiên tai và an ninh quốc phòng.
Để phát triển kinh tế hàng hải, Bộ Giao thông Vận tải cũng đề xuất mục tiêu phát triển hạ tầng giao thông đường bộ, đường sắt, đường thủy nội địa trong các quy hoạch chuyên ngành đường bộ, đường sắt và đường thủy nội địa.
Trong đó, về đường bộ hình thành hệ thống đường cao tốc kết nối các trung tâm kinh tế, chính trị, các vùng kinh tế trọng điểm, cảng biển và cảng hàng không cửa ngõ quốc tế; cơ bản hoàn thành các tuyến cao tốc kết nối liên vùng, kết nối các cảng biển cửa ngõ quốc tế, cảng hàng không quốc tế, các cửa khẩu quốc tế chính có nhu cầu xuất nhập khẩu hàng hóa lớn... Cải tạo nâng cấp để khai thác có hiệu quả các tuyến đường sắt hiện có, ưu tiên xây dựng một số tuyến đường sắt kết nối cảng biển cửa ngõ quốc tế, đặc biệt khu vực Hải Phòng và Bà Rịa - Vũng Tàu...
Cho ý kiến về phát triển, phục hồi lĩnh vực du lịch biển, Thứ trưởng Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch Đoàn Văn Việt khẳng định, là một quốc gia biển với nhiều lợi thế về địa chính trị cùng các tài nguyên ven biển và hải đảo phong phú, Việt Nam có những nguồn tài nguyên hết sức đa dạng và hấp dẫn, có khả năng tạo ra lợi thế cạnh tranh cao về du lịch.
Nghị quyết số 36-NQ/TW của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đã xác định du lịch là một trong những lĩnh vực chính và là lĩnh vực được đề cập đầu tiên trong khối các ngành kinh tế biển cần được thúc đẩy phát triển.
Du lịch biển đảo luôn được xác định là thế mạnh và là định hướng ưu tiên trong Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam, phù hợp với các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước qua các thời kỳ.
Kinh tế biển, các vùng biển, ven biển đang trở thành động lực phát triển đất nước...
Để tiếp tục triển khai thực hiện Nghị quyết 36-NQ/TW, Thứ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch cho biết, Bộ đang chỉ đạo ngành du lịch tập trung các biện pháp phục hồi ngành du lịch, nâng cao năng lực của các địa phương, trong đó tập trung cho các địa phương ven biển là những địa phương trọng yếu thu hút khách du lịch.
“Ở các năm tiếp theo, sẽ tiếp tục thực hiện các nhiệm vụ chủ yếu phát triển kinh tế du lịch biển gắn với nghiên cứu, đề xuất các cơ chế, chính sách ưu đãi đầu tư phát triển các khu du lịch nghỉ dưỡng biển chất lượng cao ở các trọng điểm cùng các chính sách phát triển sản phẩm du lịch biển đảo tạo ra sự phát triển đột phá cho du lịch biển đồng thời vươn ra các đảo xa bờ, phối hợp với các địa phương ven biển tổ chức nhiều hoạt động lễ hội, sự kiện để thúc đẩy phát triển bền vững ngành du lịch biển”, Thứ trưởng cho biết.
Bích Liên