Tỉnh Bến Tre hướng đến mục tiêu quản lý bảo vệ và sử dụng bền vững diện tích rừng vùng ven biển hiện có và diện tích rừng được tạo mới trong giai đoạn 2021 - 2030 trên địa bàn của tỉnh. Phát huy hiệu quả vai trò, chức năng của rừng vùng ven biển trong việc phòng hộ, bảo vệ môi trường, bảo tồn đa dạng sinh học...góp phần phát triển kinh tế - xã hội; giảm nhẹ thiên tai, ứng phó hiệu quả với biến đổi khí hậu và nước biển dâng...
Bến Tre là một trong những địa phương chịu ảnh hưởng lớn bởi những tác động của biến đổi khí hậu gây ra như triều cường, nước biển dâng, xâm nhập mặn… làm ảnh hưởng và gây thiệt hại cho sản xuất và đời sống của cộng đồng. Theo dự báo của các chuyên gia nghiên cứu về biến đổi khí hậu, nếu mực nước biển dâng 0,75-1m thì khoảng 60-70% diện tích tự nhiên của tỉnh bị ngập, một số khu vực ven biển đang bị xói lở mạnh, lấn sâu vào đất liền từ 20-30m/năm.
Hiện nay, tỉnh Bến Tre đã đưa vào quy hoạch 8.840 ha đất rừng ngập mặn. Trong đó, đất có rừng khoảng 4.368 ha, tập trung tại các xã thuộc ba huyện ven biển gồm: Thạnh Phú, Ba Tri và Bình Đại. Rừng tại Bến Tre chủ yếu là rừng ngập mặn với loài cây phổ biến là bần, mắm, cây có giá trị kinh tế thấp và đa phần là rừng trồng. Tuy nhiên, với đặc điểm ven biển, rừng ngập mặn có vai trò rất quan trọng trong việc chắn gió, chắn sóng, góp phần tạo cảnh quan, bảo vệ bờ biển, bảo vệ môi trường, nhất là bảo vệ an toàn đời sống dân cư phía bên trong rừng.
Nhằm phát huy giá trị phòng hộ của rừng ngập mặn với biển đổi khí hậu, tỉnh Bến Tre đã tiến hành xây dựng hai dự án trên ba huyện vùng rừng ngập mặn ven biển ở tỉnh Bến Tre. Đó là Dự án rừng phòng hộ ven biển với diện tích 5.351 ha ở huyện Ba Tri, Bình Đại và xây dựng Khu bảo tồn thiên nhiên đất ngập nước ở Thạnh Phú với diện tích 2.584 ha. Ngoài ra, đai rừng ngập mặn của tỉnh cũng phát huy hiệu quả chức năng phòng chống xói lở bờ biển, cố định đất ở các bãi bồi, góp phần đẩy nhanh tốc độ bồi tụ, mở rộng đất sản xuất, đặc biệt là bảo vệ sản xuất nông nghiệp, thủy sản và bền vững ở khu vực vùng ven biển của tỉnh.
Tỉnh Bến Tre triển khai nhiều giải pháp nhằm bảo vệ, phát triển diện tích rừng ven biển.
Theo đại diện Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, hiện nay ngành đang quản lý, bảo vệ, và sử dụng bền vững 4.368ha rừng ven biển hiện có của tỉnh. Đồng thời, phát triển tạo thêm rừng mới để nâng tỷ lệ che phủ rừng từ 1,77% năm 2020 lên 2% vào năm 2025. Để thực hiện đạt kế hoạch đề ra ngành nông nghiệp đã triển khai một số nhiệm vụ cụ thể trong giai đoạn 2021 - 2025 là trồng rừng mới 416ha; trồng lại rừng sau khai thác 543ha; khoanh nuôi xúc tiến tái sinh 56ha; bảo vệ rừng 21.580 lượt/ha; tỷ lệ che phủ rừng 2%. Giai đoạn 2026 - 2030, trồng rừng mới 60ha; trồng lại rừng sau khai thác 363ha; khoanh nuôi xúc tiến tái sinh 10ha; bảo vệ rừng 22.140 lượt/ha; tỷ lệ che phủ rừng 2,1%.
Các giải pháp về cơ chế, chính sách lâm nghiệp, triển khai thực hiện các cơ chế, chính sách quản lý, bảo vệ và phát triển bền vững rừng ven biển ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng, chống sa mạc hóa và suy thoái đất, cơ chế chính sách về khôi phục và phát triển rừng ven biển gắn với phát triển kinh tế - xã hội. Rà soát, hoàn thiện việc giao rừng, khoán bảo vệ rừng ven biển cho tổ chức, cá nhân và hộ gia đình theo quy định của pháp luật. Xây dựng và triển khai các mô hình nuôi trồng thủy sản kết hợp trong rừng ngập mặn hiệu quả bền vững; khuyến khích, huy động sự tham gia của các doanh nghiệp trong liên kết trồng rừng và các mô hình sinh kế dựa trên các dịch vụ môi trường rừng ven biển.
Tổ chức kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ các hoạt động vi phạm, xâm hại đến rừng phòng hộ ven biển. Ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật trong chọn tạo giống cây trồng rừng ven biển có sức chống chịu cao với điều kiện tự nhiên khắc nghiệt và sâu bệnh hại. Triển khai ứng dụng các biện pháp kỹ thuật lâm sinh hiệu quả trong trồng rừng phòng hộ chắn sóng, lấn biển; xây dựng rừng phòng hộ chắn sóng, lấn biển có cấu trúc đa tầng, đa loài, nâng cao khả năng phòng hộ của rừng.
Triển khai ứng dụng các mô hình sinh kế, nông lâm ngư kết hợp gắn với bảo vệ, phát triển rừng ven biển như: Tỷ lệ diện tích nuôi trồng thủy sản kết hợp trong rừng ngập mặn (tỷ lệ tôm, rừng thích hợp); các mô hình du lịch sinh thái, nuôi gia cầm, trồng cây dược liệu, hoa màu xen kẽ dưới tán rừng đối với rừng trên vùng đất cát, ven biển để nhân rộng, chuyển giao, cải thiện sinh kế cho người dân địa phương tham gia bảo vệ rừng.
Minh Tân