Việt Nam được xem là một trong những nước sẽ bị ảnh hưởng nặng nhất do biến đổi khí hậu (BÐKH) toàn cầu. Thách thức lớn nhất của VN là chưa có chiến lược, chính sách phù hợp.
Theo dự báo, BÐKH sẽ làm cho các trận bão ở VN có mức độ tàn phá nghiêm trọng hơn.
Ðường đi của bão dịch chuyển về phía nam và mùa bão dịch chuyển vào các tháng cuối năm. Lượng mưa giảm trong mùa khô (tháng 7 và 8), và tăng trong mùa mưa (tháng 4 và 11); mưa lớn thường xuyên hơn gây lũ lớn và nhiều hơn ở miền Trung và miền Nam.
Hệ sinh thái biển sẽ bị tổn thương. Các rạn san hô là nơi sinh sống của nhiều loài sinh vật biển, là lá chắn sóng chống xói mòn bờ biển và bảo vệ rừng ngập mặn sẽ bị suy thoái do nhiệt độ nước biển tăng, đồng thời mưa nhiều làm cho nước bị ô nhiễm phù sa và có thể cả các hóa chất nông nghiệp từ cửa sông đổ vào. Nhiệt độ tăng làm nguồn thủy, hải sản bị phân tán. Các loài cá nhiệt đới (kém giá trị kinh tế trừ cá ngừ) tăng lên, các loài cá cận nhiệt đới (giá trị kinh tế cao) giảm.
Các thay đổi diễn ra sẽ đe dọa sự phát triển, đe dọa cuộc sống của tất cả các loài, các hệ sinh thái. BÐKH với các hệ quả của nó như lũ lụt, hạn hán, cháy rừng, xói mòn và sụt lở đất sẽ thúc đẩy sự suy thoái ÐDSH nhanh hơn, trầm trọng hơn, nhất là những hệ sinh thái rừng nhiệt đới không còn nguyên vẹn, tăng nguy cơ diệt chủng của động, thực vật, làm biến mất các nguồn gien quý, hiếm, bệnh dịch mới có thể phát sinh (Thông báo quốc gia lần thứ nhất). BÐKH tăng một số nguy cơ đối với người bệnh, thay đổi đặc tính trong nhịp sinh học của con người. Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO), trái đất nóng lên có thể sẽ làm hơn 150 nghìn người chết và năm triệu người bị mắc các chứng bệnh khác nhau. Con số trên có thể tăng gấp hai lần vào năm 2030.
Ảnh hưởng của BÐKH đối với đa dạng sinh học (ÐDSH) ở VN
Hạn hán xảy ra ở phần lớn các khu vực của cả nước. Nhiệt độ trung bình năm tăng khoảng 0,1 đến 0,30 độ C/ thập kỷ. Nhiệt độ tăng và lượng mưa thay đổi sẽ ảnh hưởng đến nông nghiệp và nguồn nước. Mực nước biển có khả năng dâng cao 1m vào cuối thế kỷ, lúc đó VN sẽ mất hơn 12% diện tích đất đai, nơi cư trú của 23% số dân.
Hậu quả do BÐKH toàn cầu gây ra ngày một rõ ràng, trong đó có tác động đến ÐDSH, nguồn tài nguyên quý giá của đất nước. Dựa vào một số nghiên cứu đã thực hiện trên thế giới và điều kiện tự nhiên của VN, dự báo hậu quả của BÐKH sẽ tác động mạnh lên hai vùng đồng bằng sông Cửu Long và sông Hồng, các vùng dọc bờ biển và các hệ sinh thái rừng trong cả nước. Nước biển dâng sẽ ảnh hưởng vùng đất ngập nước của bờ biển VN, nghiêm trọng nhất là khu vực rừng ngập mặn của Cà Mau, TP. Hồ Chí Minh, Vũng Tàu và Nam Ðịnh.
Hai vùng đồng bằng và ven biển nước ta, trong đó có rừng ngập mặn và hệ thống đất ngập nước rất giàu có về các loài sinh vật, là những hệ sinh thái rất dễ bị tổn thương. Mực nước biển dâng lên cùng với cường độ của bão sẽ làm thay đổi thành phần của trầm tích, độ mặn và mức độ ô nhiễm của nước, làm suy thoái và đe dọa sự sống còn của rừng ngập mặn và các loài sinh vật trong đó. Khi mực nước biển dâng cao, khoảng một nửa trong số 68 khu đất ngập nước sẽ bị ảnh hưởng nặng; nước mặn sẽ xâm nhập sâu vào đất liền, giết chết nhiều loài động, thực vật nước ngọt, ảnh hưởng nguồn nước ngọt cung cấp cho sinh hoạt và trồng trọt của nhiều vùng. 36 khu bảo tồn, trong đó có tám vườn quốc gia, 11 khu dự trữ thiên nhiên sẽ bị ngập.
Làm gì để ứng phó với BÐKH toàn cầu?
Tác động của BÐKH trong những năm qua không loại trừ quốc gia nào, dù cho nước đó không góp nhiều vào nguyên nhân gây nên BÐKH. Riêng ở nước ta, trong những năm gần đây, hạn hán, mưa lũ, sụt lở đất, lũ quét xảy ra dồn dập, nhất là năm 2007, đã gây thiệt hại rất nặng nề về người và của. Chúng ta đã và đang cố gắng làm mọi cách nhằm giảm nhẹ ảnh hưởng của thiên tai, cả bằng khoa học kỹ thuật và các biện pháp xã hội. Thách thức lớn nhất của VN hiện nay là chưa có chiến lược, chính sách, chương trình, kế hoạch phát triển phù hợp sự biến đổi hết sức nhanh chóng của khí hậu toàn cầu. VN đang xây dựng Chương trình Mục tiêu Quốc gia đối với BÐKH. Mong rằng Chương trình sớm được thông qua và thực hiện. Ðể phát triển bền vững, trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội trước mắt và lâu dài của đất nước và từng vùng, cần phải sớm đặt vấn đề về BÐKH toàn cầu một cách nghiêm túc. Trong xây dựng quy hoạch phát triển, chúng ta cần chú ý việc làm giảm nhẹ và phòng, chống, nhưng cũng cần quan tâm vấn đề thích nghi với BÐKH.
Nhà nước cần sớm tổ chức một cơ quan chuyên trách có đủ năng lực để nghiên cứu về BÐKH toàn cầu và phát triển bền vững, sớm đề xuất những ý kiến xác đáng, khả thi về phát triển kinh tế - xã hội nước ta một cách lâu dài trong bối cảnh BÐKH toàn cầu mới, trong đó cần lưu ý đúng mức đến bảo tồn ÐDSH, vốn tài nguyên quý giá, cơ sở cho sự phát triển bền vững của đất nước.
Chúng ta cũng nên rà soát lại những công trình phát triển liên quan diện tích rừng hiện có; thúc đẩy mạnh hơn việc bảo vệ rừng và trồng rừng, vì các loài sinh vật chỉ có thể chống đỡ được với những sự biến đổi về môi trường khi sinh sống trong một hệ sinh thái ổn định; sử dụng hợp lý đất đai, củng cố và quản lý tốt các khu bảo tồn thiên nhiên, tăng cường tiết kiệm năng lượng, giảm thiểu ô nhiễm và xóa đói, giảm nghèo; làm tốt công tác truyền thông, nhằm nâng cao nhận thức của tầng lớp nhân dân về thảm họa của BÐKH toàn cầu.