Các vùng đất ngập nước góp phần rất lớn để cân bằng sinh thái, cung cấp dinh dưỡng, là môi trường sinh tồn của nhiều loài động vật hoang dã; lưu trữ carbon; ứng phó với biến đổi khí hậu và bảo vệ môi trường.
Vùng đất ngập nước có vai trò lớn đối với con người và thiên nhiên, bởi nó có thể lọc các chất độc hại; lưu trữ carbon giúp chống lại các tác động của biến đổi khí hậu; giúp giảm thiểu các tác động tiêu cực trong điều kiện thời tiết cực đoan; lưu trữ nước mưa, nước chảy tràn khi bão giúp giảm lũ lụt và hỗ trợ nước khi hạn hán; bảo đảm đa dạng sinh học, là môi trường sống của hơn 100 nghìn loài sinh vật; bảo đảm nguồn cung cấp thức ăn và tạo nên các nguồn sinh kế cho khá nhiều người dân.
Việt Nam có khoảng 12 triệu ha đất ngập nước, chiếm khoảng 37% tổng diện tích đất tự nhiên của cả nước. Các hệ sinh thái đất ngập nước tự nhiên quan trọng như các hồ, đầm, rừng ngập mặn, vùng đất ngập nước ven biển rất có giá trị về đa dạng sinh học. Các vùng đất ngập nước được phân bố ở châu thổ sông Hồng, sông Cửu Long và các hệ sinh thái đầm phá, bãi bùn, vùng cửa sông và vùng ngập mặn dọc theo bờ biển.
Hệ sinh thái đất ngập nước của Việt Nam rất đa dạng với 1.028 loài cá, hơn 800 loài chim, 800 loài động vật không xương sống ở hệ sinh thái nước ngọt và hơn 11 nghìn loài động, thực vật sống ở hệ sinh thái đất ngập nước biển, ven biển. Việt Nam đã đề cử thành công 9 Khu Ramsar với tổng diện tích 120.549 ha, bao gồm: Vườn Quốc gia Xuân Thủy - Nam Định; Bàu Sấu thuộc Vườn Quốc gia Cát Tiên - Đồng Nai; Hồ Ba Bể - Bắc Kạn; Tràm Chim - Đồng Tháp; Vườn Quốc gia Mũi Cà Mau; Vườn Quốc gia Côn Đảo; Khu bảo tồn Đất ngập nước Láng Sen - Long An; Vườn quốc gia U Minh Thượng - Kiên Giang và Khu bảo tồn thiên nhiên đất ngập nước Vân Long - Ninh Bình.
Hệ sinh thái tại các vùng đất ngập nước mở ra sinh kế cho người dân địa phương nếu được khai thác hiệu quả. Ảnh: XL.
Theo Cục Bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học, Việt Nam là quốc gia thứ 50 trên thế giới và đầu tiên của khu vực ASEAN chính thức tham gia Công ước Ramsar từ năm 1989. Hơn 30 năm gia nhập Công ước về các vùng đất ngập nước, Việt Nam đã ban hành nhiều văn bản liên quan đến quản lý đất ngập nước, tạo cơ sở pháp lý trong việc quản lý và phát triển bền vững đất ngập nước ở Việt Nam.
Nghị định số 109/2003/NĐ-CP là văn bản pháp lý đầu tiên quy định trực tiếp đến bảo tồn, sử dụng bền vững đất ngập nước, góp phần thực hiện hiệu quả cam kết của Việt Nam là quốc gia thành viên Công ước Ramsar. Việt Nam triển khai nhiều hoạt động bảo tồn và sử dụng khôn khéo đất ngập nước trên toàn quốc, kiểm soát và hạn chế các hoạt động khai thác trái phép tài nguyên đất ngập nước, đặc biệt là chuyển đổi mục đích sử dụng đất ngập nước; nâng cao ý thức và trách nhiệm của cộng đồng trong sử dụng, bảo vệ tài nguyên đất ngập nước.
Để phát huy giá trị của các vùng đất ngập nước, cũng như khắc phục những khó khăn, bất cập đang gặp phải hiện nay, ngày 29/7/2019, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Nghị định số 66/2019/NĐ-CP về bảo tồn và sử dụng bền vững các vùng đất ngập nước; ngày 24/11/2021, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1975/QĐ-TTg ban hành Kế hoạch hành động quốc gia về bảo tồn và sử dụng bền vững các vùng đất ngập nước giai đoạn 2021-2030…
Theo đó, việc bảo tồn và sử dụng vùng đất ngập nước phải thực hiện trên nguyên tắc tiếp cận hệ sinh thái, bảo đảm duy trì toàn vẹn cấu trúc, chức năng, đặc tính sinh thái của vùng đất ngập nước; tăng cường vai trò, sự tham gia của cộng đồng dân cư sinh sống chung quanh vùng đất ngập nước và các bên liên quan trong bảo tồn, sử dụng vùng đất ngập nước; bảo đảm cơ chế chia sẻ lợi ích công bằng, hợp lý về quyền lợi và nghĩa vụ giữa các bên liên quan trong việc sử dụng dịch vụ hệ sinh thái khu vực này…
Tháng 1/1989, vùng đất ngập nước thuộc Vườn quốc gia Xuân Thủy (Nam Định) chính thức được công nhận là Khu Ramsar đầu tiên của Việt Nam và Đông Nam Á, thứ 409 của thế giới. Vườn quốc gia Xuân Thủy có tổng diện tích 14.500ha, trong đó hơn 7.100ha là vùng lõi và hơn 7.300ha là vùng đệm, nằm trên địa bàn 5 xã của huyện Giao Thủy: Giao Thiện, Giao An, Giao Lạc, Giao Xuân, Giao Hải. Đây là vùng đất ngập nước cửa sông ven biển tiêu biểu với địa hình tự nhiên được kiến tạo theo quy luật bồi tụ và xói lở của vùng cửa sông châu thổ Bắc Bộ.
Các bãi bồi lớn xen kẽ với các dòng sông được thành tạo trong quá trình phát triển tự nhiên vùng cửa Ba Lạt tạo nên những cảnh quan đặc sắc của khu vực. Các bãi triều lầy vùng cửa sông là nơi sinh trưởng của rừng ngập mặn, nó cũng là bãi đậu, kiếm ăn của các loài chim di trú, các giồng cát cao ở mép ngoài Cồn Lu là dải rừng phi lao chắn sóng, đồng thời là nơi cư trú của nhiều loài chim bản địa.
Theo điều tra gần đây nhất về tính đa dạng sinh học trong gần 1.600ha rừng ngập mặn, rừng phòng hộ tại huyện Giao Thủy có 202 loài thực vật bậc cao có mạch, trong đó có 9 loài cây ngập mặn thực thụ là bần chua, 2 loài trang, sú, đước vòi, 2 loài ô rô, giá, cóc kèn. Hệ động vật cũng rất phong phú. Chỉ riêng khu vực bãi bồi cửa sông, ven biển thuộc VQG Xuân Thủy đã có 1.647 loài, trong đó có tới 9 loài chim, 3 loài cá, 4 loài bò sát, 1 loài giáp xác có tên trong Sách đỏ Việt Nam 2007; 19 loài cá, 1 bò sát, 14 loài chim có tên trong Danh lục đỏ của IUCN-2015. Nơi đây cũng là nơi lưu trú, kiếm ăn của 222 loài chim, hơn 160 loài cá và gần 500 loài động vật nổi và động vật không xương sống cỡ lớn ở đáy.
Khai thác nguồn lợi thủy hải sản, phát triển du lịch sinh thái cùng nhiều mô hình sinh kế khác được triển khai tại VQG Xuân Thủy (Nam Định).
Xác định được vai trò, vị thế và tầm quan trọng của vùng đất ngập nước Xuân Thủy, trong suốt nhiều năm qua, VQG Xuân Thủy đã thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp nhằm bảo tồn tài nguyên thiên nhiên, đa dạng sinh học tại khu vực, đồng thời góp phần phát triển kinh tế – xã hội tại địa phương. Để hỗ trợ người dân, VQG Xuân Thủy cùng với nhiều tổ chức triển khai các dự án, giúp người dân địa phương tăng thu nhập bằng các sinh kế mới như trồng nấm, nuôi ong, làm du lịch sinh thái cộng đồng. Hưởng lợi từ VQG, người dân, chính quyền địa phương, các lực lượng chức năng đã phối hợp với Vườn tiến hành nhiều hoạt động bảo tồn và phát triển hệ sinh thái.
Nhận thấy việc kết hợp bảo tồn gắn với sinh kế cộng đồng là điều quan trọng trong phát triển bền vững, thời gian qua VQG Xuân Thủy đã đưa các sinh kế mới như trồng nấm, nuôi ong, nuôi ngao bền vững...trong phát triển kinh tế tại các địa phương. Với nghề sản xuất mật ong từ rừng sú vẹt, vườn đã phối hợp với Viện Khoa học nông nghiệp (Bộ NN&PTNT) hướng dẫn kỹ thuật, chuyển giao công nghệ quản lý, chăm sóc đàn ong cũng như tìm hiểu về nguồn hoa nuôi ong, cách thu hoạch, sơ chế và tiêu thụ sản phẩm. Hàng năm từ cuối tháng 4 đến tháng 7 có khoảng từ 6000-8000 đàn ong được người dân mang vào vườn để thu hoạch mật hoa sú, vẹt, với sản lượng dự kiến 80-100 tấn/năm. Đến nay vườn đã đăng ký xây dựng thương hiệu sản phẩm mật ong Xuân Thủy để xây dựng bền vững cho mật ong Xuân Thủy.
Ngoài ra, VQG còn phối hợp cùng địa phương tổ chức, hướng dẫn cho người dân khai thác thủy sản bền vững dưới tán rừng, như thành lập các tổ cộng đồng tự quản vừa khai thác vừa bảo vệ rừng điển hình như xã Giao An, Giao Lạc. VQG cũng chú trọng tới các chương trình dự án trồng rừng, phục hồi rừng và tái thả nguồn lợi thủy sản kết hợp với việc thực hiện cơ chế khai thác bền vững nguồn lợi thủy sản, từ đó tạo nguồn thu nhập cho cộng đồng địa phương và duy trì hiện trạng đa dạng sinh học tại khu Ramsar Xuân Thủy.
Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Giao Thủy lần thứ XXVI, nhiệm kỳ 2020-2025 đã xác định: Tập trung phát triển kinh tế biển trên cơ sở đẩy mạnh khai thác tiềm năng, thế mạnh vùng kinh tế biển để trở thành vùng kinh tế động lực, là cực tăng trưởng phía nam của tỉnh. Theo đó huyện sẽ tập trung thực hiện Kế hoạch số 561/KH-UBND ngày 12-4-2019 của UBND tỉnh về triển khai thực hiện Nghị quyết số 36/NQ/TW ngày 22-10-2018 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn 2045.
Nghiên cứu xây dựng các cơ chế hỗ trợ, thúc đẩy phát triển kinh tế biển. Chỉ đạo các xã, thị trấn ven biển tiếp tục phát huy tiềm năng, lợi thế của từng xã, thị trấn và sự liên kết trong vùng nhằm phát triển nhanh, bền vững với các lĩnh vực mũi nhọn và đột phá, đó là: Nuôi trồng, khai thác và chế biến thủy hải sản, dịch vụ hậu cần nghề cá, dịch vụ du lịch biển. Nhằm phục vụ cho phát triển kinh tế biển, huyện chú trọng tới thế mạnh của mình, trong đó, tập trung quy hoạch và hình thành các vùng nông nghiệp sinh thái: 2 vùng nuôi thuỷ sản sinh thái với ước tính diện tích khoảng 800ha và vùng nuôi chuyên cá bống bớp, cá bống bớp xen tôm tại các xã Giao Thiện, Giao Phong…
Ngày Đất ngập nước Thế giới (2/2) năm 2024 có chủ đề: “Đất ngập nước và phúc lợi cho con người". Hưởng ứng đề nghị của Ban Thư ký Công ước Ramsar triển khai các hoạt động kỷ niệm Ngày Đất ngập nước Thế giới (2/2) năm 2024 và lời kêu gọi của Đại Hội đồng Liên hợp quốc về Thập kỷ “Phục hồi Hệ Sinh thái,” Bộ Tài nguyên và Môi trường có Công văn số 183/BTNMT-BTĐD gửi các Bộ, cơ quan ngang Bộ và cơ quan thuộc Chính phủ; Cơ quan Trung ương của các Ban, ngành và đoàn thể; Ủy ban Nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tổ chức tuyên truyền, phổ biến về giá trị và tầm quan trọng của các vùng đất ngập nước đối với sự sống của con người và thiên nhiên, tăng cường nhận thức về các mối đe dọa chính đối với hệ sinh thái đất ngập nước; đồng thời kêu gọi người dân cùng cam kết bảo vệ, sử dụng bền vững các vùng đất ngập nước, tăng cường quản lý, phục hồi đất ngập nước.
Các cơ quan, đơn vị, địa phương tổ chức các hoạt động truyền thông phù hợp hoặc phát động các phong trào gắn với chủ đề Ngày Đất Ngập Nước Thế giới năm 2024; tích hợp nội dung về bảo vệ giá trị đất ngập nước, quản lý, phục hồi và sử dụng bền vững các vùng đất ngập nước vào các chương trình, quy hoạch, kế hoạch, dự án phát triển của Bộ, ngành và địa phương. Các hoạt động hướng đến mục tiêu làm nổi bật mối liên hệ giữa phúc lợi cho con người với sức khỏe của các vùng đất ngập nước trên thế giới; nhấn mạnh tầm quan trọng trong các hoạt động quản lý của con người đối với các vùng đất ngập nước trên thế giới...
Thu Trang