Tỉnh Bình Định hướng tới mục tiêu khai thác hợp lý, sử dụng hiệu quả, tài nguyên biển và hải đảo phục vụ phát triển kinh tế - xã hội gắn với bảo đảm quốc phòng an ninh, đối ngoại và hợp tác quốc tế hướng tới mục tiêu đưa Bình Định trở thành tỉnh mạnh về biển, giàu từ biển.
Bình Định là tỉnh ven biển miền Trung, có đường bờ biển thuộc đất liền dài 134 km và các đảo nhỏ. Do ảnh hưởng nhô ra của các dãy núi, cũng như khí hậu và tác động của các quá trình thủy văn động lực của biển, đủ tạo nên sự phức tạp của vạch bờ, đồng thời cũng tạo nên nhiều đầm, phá ven biển như: đầm Trà Ổ, đầm Nước Ngọt, đầm Mỹ Khánh, đầm Thị Nại và phá Công Khanh. Các đầm, phá được ngăn cách với biển bởi các doi cát hoặc các dãy núi thấp và trao đổi nước với biển thông qua các cửa rất hẹp. Dạng địa hình đầm, phá sẽ đem lại nguồn lợi kinh tế đáng kể nếu được chú ý nghiên cứu đầu tư vào việc nuôi trồng, khai thác các nguồn lợi thủy, hải sản.
Dọc bờ biển Bình Ðịnh có các cửa biển: Tam Quan, An Dũ, Hà Ra, Ðề Gi và cửa Quy Nhơn. Dọc ven bờ biển Bình Ðịnh có 32 hải đảo lớn nhỏ, trong đó có mười cụm hải đảo, đáng lưu ý là đảo Cù Lao Xanh. Khu vực biển Bình Ðịnh gắn liền với các di chỉ khảo cổ thuộc nền văn hóa Sa Huỳnh, văn hóa Chăm, văn hóa thời Tây Sơn, với nhiều địa điểm đã được Nhà nước xếp hạng di tích lịch sử - văn hóa như di tích Ðộng Cườm - văn hóa Sa Huỳnh, di tích cửa Thị Nại, thành Thị Nại - văn hóa Chăm, di tích Gò Kho, đầm Ðạm Thủy, cửa Ðề Gi...
Lợi thế về điều kiện tự nhiên, tài nguyên biển và hải đảo tạo động lực để Bình Định phát triển tổng hợp các ngành kinh tế biển.
Với lợi thế vị trí, tiềm năng sẵn có, Bình Định rất chú trọng đến phát triển bền vững kinh tế biển, trong đó tập trung phát triển các ngành kinh tế biển xanh. Bình Định đã định hướng các mục tiêu cụ thể, xác định các nhiệm vụ trọng tâm và giải pháp chủ yếu để phát triển các ngành kinh tế biển theo thứ tự ưu tiên như sau: đầu tư phát triển du lịch biển và dịch vụ biển; phát triển kinh tế hàng hải; phát triển lĩnh vực khai thác, nuôi trồng, chế biến hải sản; khuyến khích phát triển ngành công nghiệp và đô thị ven biển; tăng cường đầu tư năng lượng tái tạo và phát triển các ngành kinh tế biển mới; khai thác bền vững các tài nguyên khoáng sản biển.
Về đầu tư phát triển du lịch biển và dịch vụ biển, Bình Định đã hình thành nhiều sản phẩm du lịch gắn với biển đảo: nghỉ dưỡng biển, du lịch sinh thái biển, thể thao trên biển, lặn biển ngắm san hô, vui chơi giải trí ở các bãi biển gắn với mua sắm hải sản, trải nghiệm ẩm thực. Kêu gọi các doanh nghiệp đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch. Bình Định phát triển đa dạng sản phẩm du lịch biển đảo, bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa vùng biển, đảo, bảo tồn và phát triển du lịch bền vững khu vực làng chài xã Nhơn Lý, thành phố Quy Nhơn.
Thời gian tới, tỉnh Bình Định tiếp tục sử dụng không gian biển theo Quy hoạch quốc gia và Quy hoạch tổng thể khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên vùng bờ được phê duyệt. Từng bước khắc phục những mâu thuẫn, chồng chéo về lợi ích khai thác, sử dụng tài nguyên giữa các ngành, các cấp, bảo đảm hài hòa lợi ích của Nhà nước, doanh nghiệp, cộng đồng dân cư và sinh kế của người dân, bảo đảm môi trường biển, các hệ sinh thái biển, ven biển và hải đảo được bảo vệ hiệu quả, ứng phó với biến đổi khí hậu, nước biển dâng.
Đồng thời, bố trí không gian biển cho các hoạt động sau: Phát triển du lịch sinh thái, du lịch địa chất thám hiểm khoa học, du lịch cộng đồng; du lịch văn hóa; du lịch ra các đảo, vùng biển xa bờ, duy trì tốc độ tăng trưởng bình quân 11 - 12%/năm, về khách quốc tế từ 8 - 10% /năm và khách nội địa từ 5 - 6%/năm, về tốc độ tăng trưởng bình quân khách hàng năm đạt 6,1%/năm; Phát triển hệ thống cảng biển xanh, thiết lập các khu vực biển đặc biệt nhạy cảm, có tính đến bối cảnh biến động trong khu vực và quốc tế.
Các bến cảng khách quốc tế gắn với các địa phương phát triển du lịch; các bến cảng quy mô lớn phục vụ Khu kinh tế Nhơn Hội, các khu công nghiệp; bến cảng tại xã đảo Nhơn Châu phục vụ phát triển kinh tế - xã hội gắn với quốc phòng - an ninh và chủ quyền biển đảo; cảng chuyên dùng Khu liên hợp Gang thép Long Sơn, Hoài Nhơn. Đảm bảo tổng lượng hàng hóa thông qua các cảng biển đạt 20 triệu tấn/năm;
Phát triển nuôi trồng thủy sản trên biển, khai thác thủy sản xa bờ, bảo tồn nguồn lợi thủy sản nhằm mục tiêu tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất thủy sản đạt 3,0 - 4,0%/năm; tổng sản lượng thủy sản sản xuất trong tỉnh đạt 213.000 tấn/năm; trong đó sản lượng nuôi trồng thủy sản (nước lợ và nước mặn) 23.000 tấn/năm, sản lượng khai thác thủy sản 190.000 tấn/năm; Phát triển Khu kinh tế Nhơn Hội, các khu công nghiệp ven biển và các đảo với các ngành công nghiệp công nghệ cao, công nghệ nền tảng, công nghệ nguồn. Phấn đấu số lượng doanh nghiệp thực hiện đổi mới công nghệ tăng trung bình 20%/năm;
Phát triển năng lượng tái tạo và các ngành kinh tế biển mới thân thiện môi trường; Xác định các khu vực có thể lấn biển, đảo nhân tạo để phát triển kinh tế - xã hội. Xác định khu vực nhận chìm ở biển trong trường hợp các vật liệu nạo vét không đổ được trên bờ phù hợp với Quy hoạch không gian biển quốc gia và Quy hoạch tổng thể khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên vùng bờ được phê duyệt; Hoàn thiện, nâng cao chất lượng hệ thống cảng cá, khu neo đậu tránh trú bão cho tàu cá, bảo đảm đủ công suất cho tàu cá thực hiện cập cảng, neo đậu.
Việc khai thác tài nguyên biển, hải đảo được địa phương xác định cần gắn chặt với công tác bảo tồn nguồn tài nguyên này.
Để khai thác hiệu quả tài nguyên biển, hải đảo trên địa bàn, tỉnh Bình Định ưu tiên nguồn lực để đẩy mạnh các hoạt động, mô hình khai thác, sử dụng tài nguyên hiệu quả, thân thiện môi trường, các dự án đáp ứng tiêu chí kinh tế tuần hoàn, phù hợp với trữ lượng tài nguyên và sức chứa sinh thái; hạn chế các hoạt động khai thác, sử dụng tài nguyên bằng các công nghệ lạc hậu, hiệu quả thấp, gây tổn hại đến tài nguyên, ô nhiễm môi trường, suy giảm đa dạng sinh học.
Tạo bước chuyển biến căn bản trong công tác quản lý tổng hợp tài nguyên biển, tài nguyên vùng bờ thông qua áp dụng các công cụ quy hoạch, kế hoạch, chương trình quản lý tổng hợp, đến năm 2030 cơ bản khắc phục được các mâu thuẫn, chồng chéo trong khai thác, sử dụng tài nguyên biển. Áp dụng các công cụ thuế, phí, cơ chế đấu giá, đấu thầu trong khai thác, sử dụng tài nguyên biển theo quy định. Thúc đẩy hoạt động đồng quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường, chia sẻ trách nhiệm và quyền hưởng lợi trong khai thác, sử dụng tài nguyên biển và hải đảo; đào tạo, hỗ trợ chuyển đổi nghề, đa dạng hóa sinh kế cho cộng đồng; bảo tồn các di sản văn hóa biển bằng các giải pháp chính sách, pháp luật, tài chính, nhân lực và cơ sở vật chất, trang thiết bị.
Bảo vệ và quản lý chặt chẽ các vùng biển có tính đa dạng sinh học cao; điều tra, khảo sát, đánh giá, đề xuất thành lập các khu bảo tồn, khu bảo vệ trên các vùng biển, ven biển và hải đảo; tăng cường công tác bảo tồn đa dạng sinh học; phục hồi các hệ sinh thái biển và ven biển bị suy thoái. Đến năm 2030, thành lập nhằm góp phần tăng diện tích các khu bảo tồn biển, ven biển trong tổng diện tích tự nhiên vùng biển quốc gia, 80% các khu vực biển có đa dạng sinh học cao, dịch vụ hệ sinh thái quan trọng được áp dụng chính sách bảo tồn hiệu quả.
Bảo vệ và phát triển rừng ngập mặn giai đoạn 2021 - 2025 (khoán bảo vệ 258,25 lượt ha; chăm sóc rừng trồng 18,8 lượt ha; trồng 7.300 cây phân tán xung quanh ao hồ nuôi thủy sản và vùng bãi triều ven đầm các huyện Phù Mỹ, Phù Cát, Tuy Phước và thành phố Quy Nhơn) Đẩy mạnh điều tra, đánh giá và xác định mức độ dễ bị tổn thương, tính nguy cấp của các loài sinh vật biển đặc hữu, có giá trị khoa học và kinh tế để đưa ra các phương án, giải pháp bảo vệ, bảo tồn và phục hồi. Thiết lập, mở rộng và tăng cường năng lực quản lý các khu vực tập trung sinh sản, khu vực thủy sản còn non sinh sống và đường di cư của các loài thủy sản.
Đến năm 2030, 100% các khu vực bảo vệ nguồn lợi thủy sản được xác định và quản lý hiệu quả. Kiểm soát chặt chẽ hoạt động khai thác, gây nuôi và buôn bán xuyên biên giới các loài sinh vật biển hoang dã thuộc danh mục cần được bảo tồn. Ngăn ngừa, kiểm soát chặt chẽ và phòng trừ có hiệu quả các loài sinh vật ngoại lai xâm hại; kiểm soát chặt chẽ sự du nhập các giống, loài thủy sản ngoại lai và sự du nhập sinh vật ngoại lai qua hoạt động vận tải biển.
Tỉnh tiếp tục thực hiện các dự án điều tra cơ bản tài nguyên, môi trường biển và hải đảo được ưu tiên thực hiện theo thứ tự sau đây: Các dự án phục vụ cho các hoạt động khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên biển; bảo vệ môi trường, bảo tồn đa dạng sinh học, hệ sinh thái và nguồn lợi từ biển; bảo tồn các di sản văn hóa biển và bảo đảm quốc phòng, an ninh; Các dự án điều tra có tính chu kỳ đối với các loại tài nguyên, môi trường có sự biến động mạnh như tài nguyên sinh vật, nguồn lợi hải sản, quan trắc môi trường, hải văn.
Đồng thời, đẩy mạnh điều tra cơ bản kết hợp với nghiên cứu khoa học về tài nguyên, môi trường biển và hải đảo, xác định khả năng phục hồi, chống chịu của hệ sinh thái biển đảo, xác định các khu vực có tiềm năng phát triển các ngành kinh tế biển. Xây dựng và số hóa hồ sơ tài nguyên hải đảo nhằm mục tiêu khai thác, sử dụng hợp lý, hiệu quả tài nguyên, bảo vệ môi trường và góp phần bảo đảm quốc phòng, an ninh trên hải đảo của tỉnh...
Hải Hà