Net-Zero là một mục tiêu môi trường hướng đến giảm lượng phát thải các loại khí nhà kính (KNK) như CO2, CH4, N2O cân bằng với khả năng hấp thụ hoặc loại bỏ khí thải của Trái đất, đến mức tổng lượng khí thải ròng giảm xuống bằng “0”, góp phần giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu (BĐKH) theo Thỏa thuận Paris, với hy vọng giữ mức tăng nhiệt độ toàn cầu dưới 2°C và nỗ lực hạn chế sự tăng nhiệt dưới mức 1,5°C so với mức trước thời kỳ công nghiệp. Để đạt được mục tiêu này, đòi hỏi phải thực hiện giảm phát thải từ các nguồn như giao thông, sản xuất công nghiệp, điện năng; tăng cường khả năng hấp thụ các-bon thông qua trồng rừng mới, bảo tồn rừng, công nghệ thu giữ và lưu trữ các-bon. Vì vậy, Chính phủ, doanh nghiệp (DN) cũng như mỗi công dân Việt Nam cần phải chung tay thực hiện các hành động hữu ích nhằm giảm phát thải, đồng thời tích cực hỗ trợ các giải pháp cho khả năng hấp thụ các-bon, tạo ra một nền kinh tế ít phát thải và bền vững hơn.
1. Sự cần thiết giảm phát thải các-bon, hướng đến mục tiêu Net-Zero
BĐKH và hiện tượng nóng lên của Trái đất đã trở thành một trong những mối nguy hại lớn nhất đối với nhân loại trong thế kỷ 21, nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là do các hoạt động của con người gây ra, trong đó, nguồn gốc sâu xa là do việc đốt cháy nhiên liệu hóa thạch như than, dầu, khí tự nhiên, dẫn đến phát thải khí CO2 và làm tăng nồng độ KNK trong bầu khí quyển. Nồng độ CO2 trong khí quyển vào thời kỳ tiền công nghiệp (năm 1750) là 280 ppm (IPCC, 2014) và đã đạt mức kỷ lục là 407,4 ppm vào năm 2018 (IEA, 2019b). IPCC (2018) chỉ ra rằng, nhiệt độ trung bình toàn cầu trong thập kỷ 2006 - 2015 cao hơn 0,87°C so với mức trung bình trong giai đoạn 1850 - 1900. Các mô hình khí hậu dự đoán rằng, nếu không thực hiện các biện pháp mạnh mẽ để giảm mức độ sử dụng nhiên liệu hóa thạch thì nồng độ CO2 trong khí quyển sẽ đạt mức 700 - 900ppm vào năm 2100, từ đó dẫn đến sự gia tăng nhiệt độ trung bình toàn cầu từ 3 - 5°C vào năm 2100 (IPCC, 2014).
Ở khía cạnh khác, vào những năm 1990, các nhà khoa học của Ủy ban Liên Chính phủ về BĐKH (IPCC) cảnh báo rằng, nhiệt độ bề mặt Trái đất trung bình sẽ tăng lên từ 0,3 - 0,6ºC trong vòng 100 năm tới, tuy nhiên, Báo cáo thứ VI của IPCC (AR6) công bố năm 2021 cho thấy, khí thải nhà kính từ các hoạt động của con người khiến Trái đất nóng lên 1,1ºC kể từ giai đoạn 1850 - 1900 và mỗi thập kỷ trong 40 năm qua đều lần lượt nóng hơn so với các thập kỷ trước kể từ năm 1950. So với năm 1901, mực nước biển trung bình đã tăng 20cm vào năm 2018; mức tăng trung bình mực nước biển khoảng 3,7mm mỗi năm (từ 2006 - 2018). Song, Báo cáo đặc biệt của IPCC cũng chỉ ra rằng, nếu thế giới đạt Net-Zero vào năm 2040 thì cơ hội hạn chế sự nóng lên ở mức 1,5ºC sẽ cao hơn đáng kể. Đỉnh phát thải càng sớm và càng thấp thì việc đạt Net-Zero càng nhanh, giúp Trái đất ít phụ thuộc vào việc loại bỏ các-bon trong nửa sau thế kỷ.
Trước thực tế trên, Hội nghị lần thứ 26 các bên tham gia Công ước khung của Liên hợp quốc (LHQ) về BĐKH (COP26) điễn ra tại Glasgow - Scotland, Vương quốc Anh (tháng 11/2021) được xem là cơ hội cuối cùng để tất cả mọi quốc gia trên thế giới thực hiện cam kết giới hạn sự nóng lên toàn cầu theo Hiệp định Paris. Có 6 vấn đề chính được đặc biệt quan tâm tại COP26, gồm: (i) giải pháp đạt được mục tiêu trung hòa khí thải các-bon vào giữa thế kỷ 21; (ii) đảm bảo duy trì mức tăng nhiệt độ toàn cầu ở dưới 1,5ºC trong giai đoạn công nghiệp hóa; (iii) bảo tồn hệ sinh thái tự nhiên; (iv) đảm bảo quỹ tài chính về BĐKH; (v) lên kế hoạch chi tiết thực hiện Hiệp định Paris 2015; (vi) thảo luận những khả năng hợp tác về đối phó và thích ứng với BĐKH. Hội nghị COP26 mang lại hy vọng lớn cho nhân loại về việc giữ nhiệt độ trung bình toàn cầu tăng không quá 1,5ºC và đạt Net-Zero vào giữa thế kỷ 21 với những cam kết đầy hứa hẹn của các nhà lãnh đạo. Tính đến nay, đã có 137 quốc gia đưa ra cam kết về Net-Zero; 77 quốc gia, địa phương và tập đoàn tham gia ký Tuyên bố toàn cầu về chuyển đổi từ điện than sang điện sạch; 45 quốc gia cam kết chuyển đổi sang đầu tư nông nghiệp xanh, bền vững; nhiều hãng xe ô tô tuyên bố muộn nhất đến năm 2040 sẽ ngừng sản xuất xe chạy bằng xăng dầu; Mỹ và Trung Quốc ra Tuyên bố chung về hợp tác chống BĐKH… Hiệp ước này kêu gọi đẩy nhanh nỗ lực giảm dần điện than không sử dụng công nghệ thu giữ các-bon và trợ cấp nhiên liệu hóa thạch không hiệu quả, đồng thời thừa nhận sự cần thiết phải hỗ trợ để hướng tới một quá trình chuyển đổi công bằng. Đây được đánh giá là bước ngoặt quan trọng, bởi lần đầu tiên nhiên liệu hóa thạch được đề cập tại một thỏa thuận trong một kỳ hội nghị thượng đỉnh khí hậu của LHQ.
Tại Việt Nam, trong nhiều năm qua, nước ta đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ về phát triển kinh tế - xã hội (KT - XH), trong đó, ngành năng lượng có đóng góp tích cực vào sự phát triển chung của đất nước, song, kèm theo đó cũng phải đối mặt với nhiều thách thức, nhất là việc phụ thuộc vào nhiên liệu hóa thạch, dẫn đến ô nhiễm môi trường và phát thải KNK. Vì vậy, để giải quyết các thách thức của giảm nhẹ BĐKH cũng như cung cấp, sử dụng bền vững các nguồn năng lượng, một quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế các-bon thấp (low-carbon economy), hướng tới phát thải ròng bằng “0” là nhiệm vụ cần thiết và cấp bách của nước ta trong bối cảnh hiện nay. Theo Viện Nghiên cứu Chiến lược, Chính sách Công Thương (Bộ Công Thương), các thị trường đang thúc đẩy thế giới hướng tới mức sử dụng nhiên liệu hóa thạch cao nhất. Cơ quan Năng lượng quốc tế (IEA) dự đoán, than, dầu và khí đốt sẽ đạt đỉnh cao trước năm 2030, do đó, việc phát triển, mở rộng sử dụng năng lượng tái tạo (NLTT) như điện mặt trời, điện gió, thủy điện và năng lượng sinh học là những bước đi quan trọng để giảm thiểu sự phụ thuộc vào năng lượng hóa thạch ở Việt Nam.
Mặt khác, theo số liệu từ Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN), đến hết năm 2022, đã có 8.908 MW điện mặt trời, 7.660 MW điện mặt trời áp mái, 5.059 MW điện gió, 395 MW điện sinh khối và điện chất thải rắn trong tổng công suất nguồn điện. Theo Quy hoạch điện VIII, đến năm 2030, các nguồn điện NLTT (bao gồm thủy điện, điện mặt trời, điện gió, điện sinh khối) tăng từ 38,2 GW (năm 2020) lên 73,78 GW; tỷ trọng các nguồn NLTT trong cơ cấu công suất chiếm 50,3%, mặc dù tỷ trọng thủy điện ước tính giảm từ 30% xuống 20% do tiềm năng còn ít; điện sản xuất từ nguồn điện NLTT chiếm 36%. Đến năm 2050, tổng công suất các nguồn NLTT là gần 400 GW, chiếm 69,8% tổng công suất nguồn điện, vì vậy, Quy hoạch điện VIII sẽ là nền tảng cho chính sách năng lượng trong những năm tới.
2. Cam kết mạnh mẽ của Việt Nam trong thực hiện Net-Zero
Phát triển bền vững (PTBV) là yếu tố sống còn, quyết định vận mệnh của nền văn minh nhân loại trong kỷ nguyên mới, trên thực tế, Việt Nam đã nhận thức được vấn đề này từ khá sớm, thể hiện ở sự kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng (năm 2011) đã thông qua Chiến lược phát triển KT - XH giai đoạn 2011 - 2020, với quan điểm xuyên suốt là phát triển nhanh, bền vững. Tiếp đó, Hội nghị thượng đỉnh của LHQ về PTBV diễn ra ngày 25/9/2015 tại New York (Hoa Kỳ) đã thông qua văn kiện “Chuyển đổi thế giới của chúng ta: Chương trình nghị sự 2030 vì sự PTBV” với 17 mục tiêu và 169 chỉ tiêu về PTBV toàn cầu (SDGs). Trong số các SDGs đặt ra đến năm 2030, có đến 5 mục tiêu liên quan trực tiếp đến vấn đề tài nguyên, môi trường và BĐKH: (i) đảm bảo việc tiếp cận nước sạch và cải thiện điều kiện vệ sinh cho tất cả mọi người (SDG 6); (ii) đảm bảo mô hình sản xuất, tiêu dùng bền vững (SDG 12); (iii) ứng phó với BĐKH và các tác động (SDG 13); (iv) bảo tồn, sử dụng bền vững đại dương, biển và các nguồn tài nguyên biển (SDG 14); (v) quản lý tài nguyên rừng bền vững, chống sa mạc hóa, chống xói mòn đất, mất đa dạng sinh học (SDG 15). Thực hiện đường lối của Đảng và Chương trình Nghị sự 2030 của LHQ, Chính phủ Việt Nam đã ban hành Chiến lược PTBV giai đoạn 2011 - 2020; Chương trình hành động quốc gia và lộ trình thực hiện các mục tiêu PTBV đến năm 2030... trong đó xác định mô hình phát triển là kinh tế xanh (KTX), xã hội xanh, lối sống xanh, thúc đẩy tiêu dùng bền vững, xanh hóa quá trình chuyển đổi theo hướng phát triển bình đẳng, bao trùm, nâng cao khả năng chống chịu.
Cam kết đạt Net-Zero vào năm 2050 của Việt Nam khẳng định quyết tâm trong việc thực hiện các mục tiêu toàn cầu
Đặc biệt, tham dự Hội nghị COP26, Việt Nam đã chính thức đưa ra cam kết dần loại bỏ nhiệt điện than đến năm 2040 và đạt phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050. Sau COP26 và COP27, với sự chỉ đạo quyết liệt của Thủ tướng Chính phủ, Ban Chỉ đạo quốc gia đã triển khai thực hiện cam kết; các Bộ, ngành, cơ quan liên quan tham mưu, trình Thủ tướng Chính phủ ban hành nhiều đề án, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch hành động, trong đó có Chiến lược quốc gia về BĐKH; Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh (TTX); Kế hoạch hành động TTX; Chương trình hành động chuyển đổi năng lượng xanh, giảm phát thải khí các-bon và khí methane; Chương trình phát triển lâm nghiệp bền vững; Quy hoạch điện VIII tiến đến NLTT là chủ đạo; phát triển 1 triệu ha lúa chất lượng cao, phát thải thấp; xây dựng và thực hiện Đóng góp do quốc gia tự quyết định; ban hành Kế hoạch thực hiện cơ chế đối tác chuyển đổi năng lượng công bằng (JETP)… Tiếp đó, tại COP28, Việt Nam một lần nữa tái khẳng định sự quyết tâm, nỗ lực của cả hệ thống chính trị, các Bộ, ban, ngành, người dân trong thực hiện cam kết tại COP26, chung tay cùng thế giới chống BĐKH, đồng thời, công bố Kế hoạch huy động nguồn lực thực hiện JETP; nhấn mạnh việc chuyển đổi năng lượng công bằng có ý nghĩa quyết định đối với việc đạt được định hướng chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam, hướng đến mục tiêu đạt phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050 và các mục tiêu PTBV trên tinh thần lấy người dân làm trung tâm.
Gần đây nhất, trong Chiến lược quốc gia về BĐKH được phê duyệt tại Quyết định số 896/QĐ-TTg ngày 26/7/2022 của Thủ tướng Chính phủ, Việt Nam đã tuyên bố mục tiêu đến năm 2030 bảo đảm tổng lượng phát thải KNK quốc gia giảm 43,5% so với kịch bản phát triển thông thường (BAU), trong đó, lĩnh vực năng lượng giảm 32,6%, lượng phát thải không vượt quá 457 triệu tấn CO2 tương đương (CO2tđ); lĩnh vực nông nghiệp giảm 43,0%, lượng phát thải không vượt quá 64 triệu tấn CO2tđ; lĩnh vực lâm nghiệp, sử dụng đất giảm 70% lượng phát thải và tăng 20% lượng hấp thụ các-bon, tổng lượng phát thải và hấp thụ đạt ít nhất -95 triệu tấn CO2tđ; lĩnh vực chất thải giảm 60,7%, lượng phát thải không vượt quá 18 triệu tấn CO2tđ; lĩnh vực các quá trình công nghiệp giảm 38,3%, lượng phát thải không vượt quá 86 triệu tấn CO2tđ; những cơ sở có mức phát thải KNK hàng năm từ 2.000 tấn CO2tđ trở lên phải thực hiện giảm phát thải. Đến năm 2050, bảo đảm tổng lượng phát thải KNK quốc gia đạt mức phát thải ròng bằng “0”; lượng phát thải đạt đỉnh vào năm 2035, sau đó giảm nhanh, trong đó, lĩnh vực năng lượng giảm 91,6%, lượng phát thải không vượt quá 101 triệu tấn CO2tđ; lĩnh vực nông nghiệp giảm 63,1%, lượng phát thải không vượt quá 56 triệu tấn CO2tđ; lĩnh vực lâm nghiệp, sử dụng đất giảm 90% lượng phát thải, tăng 30% lượng hấp thụ các-bon, tổng lượng phát thải và hấp thụ đạt ít nhất -185 triệu tấn CO2tđ; lĩnh vực chất thải giảm 90,7%, lượng phát thải không vượt quá 8 triệu tấn CO2tđ; lĩnh vực các quá trình công nghiệp giảm 84,8%, lượng phát thải không vượt quá 20 triệu tấn CO2tđ; những cơ sở có mức phát thải KNK hàng năm từ 200 tấn CO2tđ trở lên phải thực hiện giảm phát thải.
3. Cơ hội và thách thức trong thực hiện Net-Zero của Việt Nam
3.1. Cơ hội
Thực tế cho thấy, Việt Nam có nhiều lợi thế về mặt tự nhiên lẫn yếu tố xã hội và con người, là tiềm năng lớn để thúc đẩy việc thực hiện TTX như: Nguồn dự trữ các-bon dồi dào từ tài nguyên rừng tự nhiên, chiếm tới hơn 40% tổng diện tích trên cạn của quốc gia; thời tiết nóng và ẩm tại vùng cận xích đạo, là điều kiện để phát triển rừng nhiệt đới với trữ lượng các-bon lớn; tài nguyên phát triển NLTT mạnh nhờ vị trí địa lý đắc địa trong khu vực cận xích đạo, nhiều nắng cùng với bờ biển dài nhiều gió… Mặt khác, thời gian qua, chủ đề về TTX, PTBV là vấn đề luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm, ngay sau Hội nghị COP26, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Chiến lược quốc gia về TTX giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Để hiện thực hóa Chiến lược, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Kế hoạch hành động quốc gia về TTX, nhằm hướng tới 4 nhóm mục tiêu quan trọng, gồm giảm cường độ phát thải KNK trên GDP; xanh hóa các ngành kinh tế; xanh hóa lối sống và thúc đẩy tiêu dùng bền vững; xanh hóa quá trình chuyển đổi trên nguyên tắc bình đẳng, bao trùm, nâng cao năng lực chống chịu. Đi kèm theo Kế hoạch hành động là hàng loạt các giải pháp, chính sách để cụ thể hóa mục tiêu gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, đảm bảo phát triển hài hòa trên cả 3 phương diện: Thịnh vượng về kinh tế, bền vững về môi trường và công bằng về xã hội. Đây là Kế hoạch khá toàn diện, có ý nghĩa quan trọng trong việc hiện thực cam kết đưa mức phát thải ròng về “0” vào năm 2050 cũng như Đóng góp quốc gia tự quyết định của Việt Nam.
Riêng Bộ Kế hoạch và Đầu tư, với vai trò là cơ quan đầu mối quốc gia về TTX, Bộ đã phối hợp cùng các Bộ, ngành, địa phương tập trung triển khai Kế hoạch hành động nhằm thúc đẩy chuyển dịch năng lượng xanh, sạch, bền vững và tăng cường quản lý, phát triển các khu, cụm công nghiệp; chuyển đổi phương tiện xe buýt thường sang xe buýt điện, đồng thời, nghiên cứu, đàm phán triển khai các cơ chế mới để huy động nguồn lực từ bên ngoài; đẩy mạnh các hoạt động hợp tác quốc tế để trao đổi kinh nghiệm trong việc thúc đẩy TTX... Đặc biệt, Bộ đang khẩn trương hoàn thiện, trình cấp có thẩm quyền xây dựng Bộ tiêu chí khoa học về phân loại xanh quốc gia, đảm bảo hài hòa với thông lệ quốc tế, đây chính là khung khổ pháp lý quan trọng trong triển khai thực hiện TTX, giúp các cơ quan có cơ sở pháp lý cụ thể trong việc lựa chọn dự án đầu tư ở các Bộ, ngành, địa phương; lượng hóa, đánh giá tiến bộ của TTX.
Bên cạnh đó, cam kết mạnh mẽ và những ý kiến đóng góp có trách nhiệm của Việt Nam tại Hội nghị COP26 được cộng đồng quốc tế đánh giá cao, mở ra nhiều cơ hội hợp tác về tăng trưởng ít phát thải, thúc đẩy phát triển kinh tế tuần hoàn (KTTH), thích ứng với BĐKH. Nói cách khác, Việt Nam đang đi đúng dòng chính của xu thế phát triển toàn cầu cùng với các nước phát triển có tiềm năng về kinh tế, công nghệ cao, việc cam kết đưa phát thải ròng về “0” đã gửi đi tín hiệu mạnh mẽ với cộng đồng quốc tế, khai thông, tạo điều kiện cho quốc gia tận dụng sự dịch chuyển của nguồn tài chính toàn cầu cho phát triển ít phát thải, ứng phó hiệu quả với BĐKH. Đặc biệt, nhờ có nhiều lợi thế để chuyển sang NLTT, Việt Nam có thể thu hút được nguồn tài chính xanh từ gói tài chính được cam kết từ các quốc gia với 100 tỷ USD mỗi năm cho phát triển KTX, KTTH và NLTT, đón đầu các dòng đầu tư, tín dụng của các tổ chức tín dụng - tài chính trên thế giới... đồng thời, tận dụng được cơ hội hợp tác về chuyển giao công nghệ phát thải các-bon thấp, giảm phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu hóa thạch, khơi thông tiềm năng về NLTT, trong đó có phát triển năng lượng gió ngoài khơi...
3.2. Thách thức
Theo Kịch bản phát triển thông thường, tổng phát thải của Việt Nam đến năm 2030 dự kiến là 932 triệu tấn, trong đó ngành năng lượng chiếm 680 triệu tấn, vì vậy, để đạt được mục tiêu Net-Zero là thách thức rất lớn. Hơn nữa, lộ trình cắt giảm phát thải KNK được đưa ra tại Hội nghị COP26 đòi hỏi tất cả các quốc gia phải chuyển đổi mạnh mẽ sang phát triển phát thải thấp và để thực hiện được mục tiêu này, chuyển đổi năng lượng, hướng đến chấm dứt sử dụng than là vấn đề mà Việt Nam cần phải nỗ lực rất lớn, trong đó năng lượng là lĩnh vực phải được ưu tiên quan tâm hàng đầu, bởi đây là lĩnh vực phát thải lớn nhất. Theo tính toán của Bộ TN&MT (2020), trong lĩnh vực năng lượng, 60% lượng phát thải từ công nghiệp năng lượng - chủ yếu từ sản xuất điện năng, còn theo Kịch bản phát thải trong điều kiện phát triển thông thường (BAU) của Việt Nam, dự kiến đến năm 2050, 81% lượng phát thải đến từ ngành năng lượng, như vậy năng lượng sẽ là ngành quyết định mục tiêu Net-Zero của Việt Nam.
Hội đồng Năng lượng Gió Toàn cầu (GWEC) cho rằng, để đạt mục tiêu Net-Zero, cần dừng triển khai các dự án than mới, cũng như đưa ra lộ trình tiến tới loại bỏ các dự án than hiện tại. Với xu hướng toàn cầu chuyển dịch khỏi nhiên liệu hóa thạch, kỷ nguyên than đang khép lại và các dự án than mới sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong việc huy động tài chính. Hiện nay, công suất điện than của nước ta đạt khoảng 21,3GW, đóng góp 50% tổng sản lượng điện, con số này còn được tăng lên 40,9GW vào năm 2030 và lên tới 50,9GW vào năm 2035 (Theo Quy hoạch điện VIII). Đặc biệt, với 15,8GW công suất nguồn điện ước tính chưa thu xếp được tài chính ở Quy hoạch điện VIII sẽ là thách thức không nhỏ khi Việt Nam đưa ra mục tiêu Net-Zero vào năm 2050 do đã có hơn 100 tổ chức tài chính thông báo rút khỏi các dự án khai thác than và nhà máy điện than để thực hiện mục tiêu giảm phát thải các-bon. Các chuyên gia cho rằng, trên con đường thực hiện mục tiêu Net-Zero, Việt Nam đang gặp hai thách thức lớn: Thứ nhất là về nguồn vốn, theo World Bank, đến năm 2040, Việt Nam sẽ cần 368 tỷ USD để đạt Net-Zero, nhưng số liệu thống kê của Ngân hàng Nhà nước cho thấy, dư nợ tín dụng xanh của Việt Nam tính đến ngày 30/6/2023 chỉ đạt gần 528,3 nghìn tỷ đồng, chiếm tỷ trọng khoảng 4,2% tổng dư nợ toàn nền kinh tế. Mặt khác, nguồn vốn tài chính quốc tế cho phát triển xanh cũng không còn rẻ, trong khi lãi suất của Cục Dự trữ liên bang (Ngân hàng Trung ương Mỹ - FED) và các nước châu Âu đang ở mức rất cao, do đó, việc tìm nguồn vốn cho phát triển xanh ở Việt Nam là thách thức không nhỏ, bởi nguồn vốn từ định chế tài chính quốc tế vẫn quan trọng trong lâu dài để tiến đến trái phiếu xanh, tín dụng xanh. Thứ hai là năng lực đổi mới với phát triển xanh, trong đó bao gồm hạ tầng và điều kiện sản xuất; đào tạo đội ngũ nhân lực, người lao động; các chuẩn mực quản trị điều hành, chuẩn mực công bố thông tin. Điều này dẫn đến việc không phải DN nào cũng sẵn sàng tham gia vào quá trình chuyển đổi, đặc biệt là về nguồn vốn đầu tư và hoạt động vận hành.
4. Đề xuất một số giải pháp trong thời gian tới
Để đạt mục tiêu Net-Zero vào năm 2050, Việt Nam cần tập trung thực hiện một số giải pháp trọng tâm sau:
Thứ nhất, cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật để thúc đẩy TTX, phát triển KTTH; hướng dẫn, triển khai thực hiện hiệu quả các quy định về trách nhiệm, lộ trình, phương thức giảm phát thải KNK của Luật BVMT năm 2020 cũng như các văn bản dưới Luật. Trong đó, cần đặc biệt chú trọng phát triển thị trường các-bon trong nước và mở rộng, kết nối với thị trường các-bon quốc tế; thực hiện phân bổ hạn ngạch phát thải; xây dựng cơ chế trao đổi, bù trừ, cơ chế chứng nhận tín chỉ các-bon... nhằm khuyến khích DN, người dân, đặc biệt là khu vực nông thôn thực hiện nhiều giải pháp thu hồi các-bon thông qua các hoạt động kinh tế như trồng rừng, phủ xanh đất trống, xử lý chất thải nhằm thu hồi các-bon... Đây không chỉ là một hoạt động kinh tế đơn thuần mà còn góp phần quan trọng trong việc thu hồi các-bon, giảm thiểu phát thải ròng, tiến tới Net-Zero.
Thứ hai, đẩy mạnh tuyên truyền, nâng cao nhận thức, ý thức của DN, người dân và toàn xã hội về vai trò quan trọng của việc giảm thiểu phát thải KNK, bảo vệ bầu khí quyển, trước hết là tăng cường năng lực cho đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước trong các lĩnh vực, tiến tới triển khai phổ cập kiến thức về phát thải KNK qua hệ thống giáo dục quốc dân, chương trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ các cấp. Đồng thời, tổ chức các diễn đàn, hội nghị, hội thảo, chương trình văn hóa, nghệ thuật để lồng ghép việc vận động, tuyên truyền; triển lãm trưng bày sản phẩm, công nghệ, phát động các cuộc thi sáng tạo về giảm nhẹ phát thải KNK... qua đó kêu gọi, vận động DN, tổ chức và người dân tích cực tham gia các hoạt động giảm nhẹ phát thải KNK.
Thứ ba, Việt Nam cần quy hoạch điện lưới quốc gia đến năm 2030 và lộ trình đến năm 2050, trong đó ưu tiên đầu tư công, củng cố mạng lưới truyền tải điện, có các giải pháp thay thế năng lượng, thu hút những dự án tư nhân về năng lượng gió, năng lượng mặt trời, năng lượng hydro, năng lượng sinh khối... Đầu tư đồng bộ về hạ tầng, công nghệ trong ngành năng lượng, giảm dần, tiến tới chấm dứt sự phụ thuộc vào công nghệ nước ngoài trong lĩnh vực năng lượng mới, đồng thời, có chính sách ưu đãi, khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho các DN phát triển và sử dụng năng lượng mới trong sản xuất, kinh doanh.
Thứ tư, nghiên cứu thành lập Trung tâm NLTT quốc gia nhằm phát triển nguồn nhân lực, chuyển giao công nghệ, chia sẻ kinh nghiệm và quản trị quốc gia trong lĩnh vực này. Đồng thời, cần thúc đẩy ngoại giao khí hậu, vận động thu hút nguồn lực quốc tế (các nguồn tài chính công và tư, công nghệ, tri thức, kinh nghiệm...) thông qua trao đổi, chuyến thăm cấp cao, chương trình làm việc của các Bộ, ngành, địa phương với đối tác nước ngoài, các cơ quan đại diện Việt Nam tại nước ngoài; tận dụng mọi cơ hội mà JETP mang lại; chú trọng tạo lập môi trường pháp lý thuận lợi, tăng cường năng lực quản trị để có thể sử dụng hiệu quả các khoản vay, đầu tư cho phát triển năng lượng sạch, NLTT. Ngoài ra, cần hoàn thiện chính sách để thúc đẩy đổi mới sáng tạo, chuyển giao công nghệ, chuyển đổi số và phát triển nguồn nhân lực, là những yếu tố quan trọng cho quá trình chuyển đổi xanh, hướng đến mục tiêu Net-Zero vào năm 2050.
Kết luận: Từ cam kết Net-Zero đến những hành động cụ thể, thiết thực là một hành trình dài đối với một quốc gia đang phát triển như Việt Nam, đòi hỏi cần phải có nhận thức rõ về chuyển đổi xanh, phát triển và thực hiện các mô hình sản xuất, kinh doanh phát thải thấp, song đây đồng thời sẽ là thời điểm, cơ hội để Việt Nam nâng cao vị thế trên trường quốc tế, khẳng định quyết tâm cùng hành động nhằm thực hiện các mục tiêu toàn cầu; là cơ hội để nước ta cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng dựa vào tri thức, chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, nguồn nhân lực chất lượng cao, khoa học công nghệ, đưa đất nước phát triển theo “con đường xanh”, có thu nhập cao vào năm 2045. Trong hành trình này, sự chung tay phối hợp giữa Chính phủ, người dân và DN là yếu tố then chốt, góp phần quan trọng để đảm bảo phát triển kinh tế gắn với BVMT, hướng đến mục tiêu PTBV.
ThS. Bùi Hồng Long - Bộ Kế hoạch và Đầu tư