Việt Nam học tập kinh nghiệm quản lý đa dạng sinh học

Cập nhật: 26/03/2014
Từ ngày 20/3 đến 30/3, Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường kiêm Tổng cục trưởng Tổng cục Môi trường Bùi Cách Tuyến cùng đoàn công tác có chuyến công du chính thức đến Nam Phi để học tập kinh nghiệm trong việc quản lý bảo tồn đa dạng sinh học.

 

Đây là vinh dự lớn lao của tôi để có cơ hội để dẫn đoàn đại biểu chính thức này đến Nam Phi thay mặt cho Chính phủ Việt Nam để học những bài học quan trọng từ kinh nghiệm của Nam Phi trong việc bảo tồn và quản lý đa dạng sinh học, đặc biệt là liên quan đến động vật hoang dã và quản lý khu bảo tồn.

 

Trên website Tổng cục Môi trường, PGS.TS. Bùi Cách Tuyến, Thứ trưởng Bộ Tài nguyên&Môi trường, cho biết Việt Nam được công nhận là một trong những nước có sự đa dạng sinh học lớn nhất trên thế giới. Việt Nam là nơi có nhiều hệ sinh thái, loài và nguồn gen, trong đó có nhiều loài đặc hữu phong phú.

 

Hiện nay Việt Nam có khoảng 49.200 loài đã được xác định, bao gồm 20.000 loài thực vật trên mặt đất và dưới nước, khoảng 10.500 loài động vật trên cạn, khoảng 2.000 loài động vật không xương sống và cá nước ngọt, và hơn 11.000 loài sinh vật biển.

 

Nhiều loài hệ động thực vật mới đối với khoa học đang tiếp tục được phát hiện và mô tả lần đầu tiên ở Việt Nam, với hơn 100 loài được mô tả kể từ năm 2006 cho đến năm 2011, bao gồm 21 loài bò sát, 6 loài ếch và 1 loài chồn.

 

Nhận thức được tầm quan trọng của đa dạng sinh học, Chính phủ Việt Nam đã ban hành một khung pháp lý tương đối đầy đủ liên quan đến bảo tồn đa dạng sinh học. Đặc biệt, Luật Đa dạng Sinh học được ban hành năm 2008 và Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Chiến lược quốc gia về bảo tồn đa dạng sinh học trong tháng 7 năm 2013, Nghị định về quản lý và tiêu chuẩn đánh giá các loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ trong tháng 11 năm 2013, Quy hoạch bảo tồn đa dạng sinh học quốc gia trong tháng 1/2014 đã đánh dấu một mốc quan trọng cho việc bảo tồn, tạo cơ sở pháp lý cho sự tham gia của cộng đồng địa phương trong việc bảo tồn tài nguyên thiên nhiên thông qua các cơ chế mới là đồng quản lý và chia sẻ lợi ích.

 

Việt Nam cũng đã phê chuẩn một số hiệp định quốc tế về bảo tồn đa dạng sinh học như Công ước về Đa dạng Sinh học (CBD), Công ước về Buôn bán các Loài động Thực vật Hoang dã (CITES), Công ước về Đất Ngập nước Có tầm Quan trọng Quốc tế (RAMSAR) và các thỏa thuận liên quan khác như Công ước Liên quan đến việc bảo vệ các di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới. Cho đến nay, Chính phủ Việt Nam đã có những nỗ lực rất lớn để thực hiện các công ước và thúc đẩy bảo tồn đa dạng sinh học tại Việt Nam.

 

Tuy nhiên, bất chấp những nỗ lực và thành tích Việt Nam đã đạt được như sự gia tăng của khu vực hệ sinh thái được bảo vệ, sự phát hiện các loài mới có ý nghĩa đối với khoa học, bảo tồn, khôi phục và phát triển các nguồn gen có giá trị để lựa chọn và chăn nuôi, Việt Nam vẫn phải đối mặt với nhiều thách thức trong việc thực hiện công tác bảo tồn đa dạng sinh học có hiệu quả.

 

Chúng tôi đang ở đây để học hỏi kinh nghiệm của Nam Phi trong việc quản lý ba vấn đề mà chúng tôi đã xác định là ưu tiên cho bảo tồn đa dạng sinh học tại Việt Nam: quản lý và bảo tồn động vật hoang dã, quản lý khu bảo tồn, và cơ chế tài chính bền vững dành cho công tác bảo tồn.

 

Buôn bán trái phép và tiêu thụ động vật hoang dã và các sản phẩm từ động vật hoang dã đang tăng lên tại Việt Nam là mối đe dọa chính đối với sự sống còn của nhiều loài. Sự tiêu thụ không bền vững đã dẫn đến sự suy giảm đáng báo động của quần thể hoang dã của nhiều loài động vật có vú, chim và các loài bò sát. Trong năm 2010, tê giác Java đã được tuyên bố tuyệt chủng tại Việt Nam. Hiện nay, hổ, voi, sao la, và một số loài linh trưởng quý hiếm cũng đang phải đối mặt với nguy cơ tuyệt chủng.

 

Việt Nam ghi nhận mức độ nghiêm trọng của vấn đề, và đang nỗ lực để khắc phục với một số sáng kiến, trong đó có thúc đẩy hợp tác quốc tế về động vật hoang dã: trong tháng 12/2012, sau cuộc đối thoại với Nam Phi về hợp tác trong cuộc chiến chống lại nạn săn bắn và buôn bán trái phép sừng tê giác và tê giác, chúng tôi đã ký biên bản ghi nhớ tăng cường hợp tác song phương về bảo tồn đa dạng sinh học.

 

“Chúng tôi cũng đã ký kết biên bản ghi nhớ với Lào vào tháng 5/2012 và Indonesia cũng trong tháng 12 năm 2012 về hợp tác trong việc kiểm soát buôn bán gỗ, thực vật và động vật hoang dã, và đang đối thoại với Campuchia để xây dựng biên bản ghi nhớ tương tự”, ông Tuyến nhấn mạnh, “Vấn đề quan trọng khác mà chúng tôi đang ở đây để tìm hiểu là về quản lý hiệu quả các khu bảo tồn. Hiện nay, việc quản lý các khu bảo tồn ở Việt Nam dựa trên các loại hệ sinh thái, và trách nhiệm được chia sẻ giữa Bộ Nông nghiệp&Phát triển Nông thôn (Bộ NN&PTNT), Bộ Tài nguyên&Môi trường (Bộ TN&MT) và ủy ban nhân dân tỉnh và huyện.

 

Hệ thống các khu bảo tồn của chúng tôi bao gồm 164 khu rừng đặc dụng chiếm khoảng 7% tổng diện tích đất của Việt Nam, bao gồm 30 vườn quốc gia, 58 khu bảo tồn thiên nhiên, 11 khu bảo tồn loài, 45 khu vực cảnh quan bảo vệ và 20 trang web nghiên cứu khoa học và thử nghiệm. Tuy nhiên, mặc dù một số lượng lớn các khu bảo tồn đã được thành lập và hoạt động trong một thời gian dài, sự thống nhất và chất lượng của các khu bảo tồn tiếp tục giảm là kết quả của sự phát triển cơ sở hạ tầng, các hoạt động khai thác gỗ và săn bắn trái phép, lấn chiếm, chăn thả gia súc, nuôi trồng thủy sản, cháy rừng, các loài ngoại lai xâm hại và áp lực khác.

 

Nhằm tìm ra những thiếu sót trong hệ thống quản lý đa dạng sinh học hiện tại của chúng tôi, chúng tôi muốn tìm đến Nam Phi để đạt được một sự hiểu biết về cấu trúc thay thế và hiệu quả của chúng, để đưa ra một khuyến nghị đối với Việt Nam cũng như tăng cường hợp tác hơn nữa trên các lĩnh vực bao gồm:

 

- Chia sẻ thông tin về bảo tồn đa dạng sinh học như pháp luật về quản lý động vật hoang dã và khu bảo tồn động vật hoang dã và các trường hợp mua bán tê giác;

 

- Các chuyến thăm trao đổi tới cả hai nước về các khóa đào tạo, hội thảo và các chương trình liên quan;

 

-Thúc đẩy thông tin về hợp tác song phương cho công chúng và phương tiện truyền thông;


 
- Hợp tác và xây dựng, thực hiện dự án về bảo tồn đa dạng sinh học, chống buôn bán động vật hoang dã nguy cấp trái phép.

 

- Kiến thức thu được từ chuyến công du chính thức này sẽ hỗ trợ Việt Nam rất nhiều trong việc thực hiện các mục tiêu là giảm nhu cầu và tiêu thụ sản phẩm động vật hoang dã bất hợp pháp ở Việt Nam, đảm bảo một hệ thống quản lý khu vực bảo vệ hiệu quả và tài chính bền vững, cũng như tăng cường hợp tác song phương giữa hai nước chúng ta theo như Biên bản ghi nhớ về bảo tồn và quản lý đa dạng sinh học.

 

- Cuối cùng, Việt Nam một lần nữa khẳng định cam kết về bảo tồn và quản lý đa dạng sinh học. Chúng tôi rất hoan nghênh và đánh giá cao sự hợp tác và tiếp tục hỗ trợ của Nam Phi trong vấn đề này, và chúng tôi mong muốn chúng ta có nhiều cơ hội làm việc với nhau về những vấn đề này trong tương lai.

Nguồn: MTX