Thuế môi trường phải nhằm bảo vệ môi trường 

Cập nhật: 11/11/2010
Dự án Luật thuế bảo vệ môi trường, sau khi chỉnh sửa đã được trình Quốc hội tại kỳ họp thứ 12. Trong văn bản trình lần này, Dự án Luật qui định có 8 nhóm hàng hoá thuộc đối tượng chịu thuế là xăng, dầu, mỡ nhờn, than, dung dịch HCFC, túi ni lông thuộc diện chịu thuế, thuộc diệt cỏ thuộc loại hạn chế sử dụng, thuốc khử trùng kho thuộc loại hạn chế sử dụng.

Với tinh thần trách nhiệm cao trước dân, các đại biểu quốc hội đã thảo luận sôi nổi, trong đó nổi lên vấn đề liệu Dự luật đã đủ cụ thể để tồn tại độc lập không phụ thuộc vào Nghị định hướng dẫn đi kèm chưa? Dự luật đã bao quát được hết các hoạt động tác động đến môi trường của các doanh nghiệp chưa? Dự Luật đã đủ sức răn đe và giáo dục ý thức bảo vệ môi trường chưa? Đặc biệt, nhiều ý kiến nhấn mạnh, Luật thuế bảo vệ môi trường trước hết phải nhằm mục tiêu bảo vệ môi trường, không lấy việc tăng thu ngân sách làm mục đích hàng đầu.

Sau gần 30 năm phát triển theo hướng công nghiệp hoá, đến nay có thể nhận rõ môi trường bị ô nhiễm tác hại to lớn như thế nào với đời sống con người và với chính sự phát triển của nền kinh tế. Nước thải, rác bẩn, khói bụi, tiếng ồn đã từng ngày giết chết môi trường sống của 87 triệu con người; tài nguyên bị cạn kiệt; dịch bệnh tăng lên nhanh chóng; an sinh xã hội bị đe doạ; giống nòi thoái hoá. Tình trạng ô nhiễm môi trường chính là một trong những nguyên nhân quan trọng hàng đầu của tình trạng tăng trưởng không vững chắc, chất lượng thấp hiện nay.

Luật Môi trường; Luật Tài nguyên; Luật Khoáng sản và Pháp lệnh thuế môi trường đang được nâng lên thành luật. Thuế môi trường chính nhằm mục đích bảo vệ môi trường, giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cho người sản xuất, sử dụng, tức là cho mọi người dân về việc bảo vệ môi trường sống của chúng ta, không phải trước hết là tăng thu ngân sách. Vì vậy, cần có điều khoản qui định việc sử dụng thuế môi trường như thế nào, theo nhiều người, đó là cần ưu tiên phân bố số thuế này cho những doanh nghiệp, địa phương làm tốt việc bảo vệ môi trường; cho các hoạt động ngăn chặn ô nhiễm, tái tạo môi trường đã bị huỷ hoại.

Về sức bao quát của Luật thuế, cần mở rộng hơn nữa diện phải nộp thuế, đưa các loại phí môi trường vào diện thuế trong đó cần đặc biệt quan tâm tới nước thải, rác thải, khói, bụi, tiếng ồn, ánh sáng. Ai cũng biết tình trạng ô nhiễm nguồn nước, môi trường đô thị ( nước thải, rác, bụi, tiếng ồn, mùi, ánh sáng…) rất nghiêm trọng nhưng những chế tài trong Luật chưa bao gồm hết. Bên cạnh các nguồn ô nhiễm nội sinh, Luật cũng chưa bao quát được các hoạt động gây ô nhiễm trong xuất khẩu, nhập khẩu, quá cảnh. Tình trạng nhiều trường hợp nhập rác, phủ tạng động vật, giấy bẩn không có chế tài xử lý gây bức xúc trong dư luận cũng có nguồn gốc từ đây.

Một vấn đề nữa là hiệu lực của Luật đến đâu? Do các chế tài xử phạt thiếu sức răn đe (mức phạt quá thấp) hoặc thiếu các qui định cụ thể, tình trạng lách luật, coi thường luật hiện khá phổ biến. Người dân hi vọng rằng với Luật thuế môi trường đang được xây dựng, các doanh nghiệp, người sản xuất, người tiêu dùng phải được hưởng lợi từ việc bảo vệ môi trường và bị thiệt hại nếu không thực hiện điều này thông qua thuế, một trong những công cụ hữu hiệu bảo vệ môi trường đang bị đe doạ nghiêm trọng ở nước ta.

 

Nguồn: ĐCSVN