Để phát triển du lịch sinh thái đúng tầm

Cập nhật: 02/12/2010
Trong ba ngày từ 25 - 27/11, tại Hà Nội và Ninh Bình đã diễn ra hội thảo “Hoàn thiện cơ chế, chính sách phát triển du lịch sinh thái (DLST) tại các vườn quốc gia (VQG) và khu bảo tồn thiên nhiên (BTTN) Việt Nam” do Hiệp hội Vườn quốc gia và Khu bảo tồn thiên nhiên Việt Nam tổ chức dưới sự tài trợ của Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp của Liên hợp quốc (FAO).

Hội thảo diễn ra nhằm thảo luận và xây dựng một cơ chế thống nhất để giúp loại hình DLST ngày càng phát triển đúng và xứng đáng với tiềm năng sẵn có của nó.

DLST phát triển chưa chưa xứng với tiềm năng

Với 164 rừng đặc dụng, trong đó có 30 VQG, 69 khu BTTN, 45 khu bảo vệ cảnh quan, 20 khu rừng nghiên cứu thực nghiệm khoa học, Việt Nam được đánh giá là một trong 16 quốc gia có tính đa dạng sinh học cao nhất thế giới. Hầu hết các VQG, khu BTTN có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, hệ sinh thái đa dạng cùng cảnh quan đẹp và là tiềm năng lớn để Việt Nam phát triển du lịch.

Từ chiến lược quốc gia về phát triển DLST (năm 1999), những năm gần đây loại hình này đã được phát triển mạnh tại các VQG và khu BTTN như: Bản Khanh (VQG Cúc Phương), Bản Pác Ngòi ( VQG Ba Bể), thông Chày Lập (VQG Phong Nha - Kẻ Bàng), bản A Đon (VQG Bạch Mã)…, Tuy nhiên, lượng khách đến đây còn thấp, các khu du lịch chưa đáp ứng được nhu cầu của du khách, lợi ích mang lại từ các khu DLST còn khiêm tốn. Trong số 6 VQG trực thuộc Bộ NN&PTNT mới chỉ có bốn đơn vị có nguồn thu từ DLST đạt 1 tỷ đồng/năm trở lên đó là VQG: Cát Tiên, Phong Nha - Kẻ Bàng, Cúc Phương và Ba Vì.

Ông Bùi Xuân Trường - chuyên gia của Hiệp hội VQG và khu BTTN Việt Nam cho rằng: hoạt động của các VQG và khu BTTN ở Việt Nam có định hướng DLST nhưng phát triển chưa tương xứng với tiềm năng và chưa có mô hình sinh thái đích thực. Thực tế du khách đến với các VQG mới chỉ tiếp cận được các hệ sinh thái rừng, thực vật, một số loại côn trùng mà rất hiếm gặp thú rừng. Mới chỉ thành lập được Ban du lịch hoặc Trung tâm DLST và giáo dục môi trường để điều hành hoạt động du lịch.

Bên cạnh đó, khâu quảng bá còn nhiều khó khăn, chưa được quan tâm đúng mức; đội ngũ quản lý, thuyết minh viên chưa được trang bị kiến thức một cách đầy đủ, đặc biệt là thiếu kỹ năng tổ chức nên loại hình DLST chưa thu hút được nhiều khách du lịch. Ông Trường cũng khẳng định, nhiều khu du lịch thiếu hệ thống xử lý nước thải và chất rắn gây ô nhiễm môi trường nên không thu hút được du khách; Lợi ích mang lại cho những người hoạt động trong lĩnh vực này chưa cao.

Ông Nguyễn Bá Thụ, Chủ tịch Hiệp hội VQG và KBTTN Việt Nam lại cho rằng DLST có những đặc thù riêng. Hầu hết người dân đều đánh đồng du lịch đại trà và du lịch sinh thái là giống nhau đã gây ra nhiều hạn chế cho sự phát triển của loại hình du lịch này.

Hiện nay, việc tổ chức du lịch sinh thái ở các VQG còn tùy tiện, mang tính tự phát. Hầu hết thấy khu bảo tồn của mình có cảnh sắc thiên nhiên đẹp, có nhiều người xin thăm quan là tổ chức thu tiền mà không cần lập đề án (như: nơi đón tiếp, cán bộ hướng dẫn, sản phẩm du lịch...), không xây dựng cơ sở vật chất và nguồn nhân lực cụ thể… nên đã tác động xấu đến môi trường thiên nhiên, ô nhiễm nguồn nước, phá vỡ cảnh quan môi trường. Ngược lại, một số VQG và khu BTTN giàu tiềm năng về tài nguyên du lịch lại “ngại” tổ chức hoạt động dịch vụ DLST vì cho rằng đây việc khó và phức tạp.

Hoàn thiện cơ chế chính sách để phát triển DLST có hiệu quả

Tại Hội thảo, để DLST phát triển bền vững, sớm hội nhập thị trường khu vực và thế giới và đáp ứng được nhu cầu của du khách, các đại biểu tham dự đã nhất trí đề ra một số cơ chế chính sách như: Chính sách đầu tư về cơ sở hạ tầng phục phụ phát triển DLST - điều này phải phù hợp với quy hoạch được duyệt và quy định của Luật doanh nghiệp, Luật bảo vệ và Phát triển rừng, không được làm thay đổi cảnh quan của khu rừng; Chính sách hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực phát triển DLST cho các đối tượng: cán bộ quản lý hoạt động, hướng dẫn viên và nhân viên phục vụ, nhân dân sống hợp pháp tại vùng đệm của VQG và khu BTTN sẽ được Nhà nước chi trả 100% kinh phí đào tạo.

Về vấn đề này, ông Nguyễn Bá Thụ nhận xét: có nhiều sinh viên được đào tạo bài bản về chuyên ngành du lịch nhưng khi làm hướng dẫn viên DLST lại rất bỡ ngỡ, vẫn cần sự giúp đỡ của các cán bộ VQG. Theo ông Thụ, hướng dẫn viên DLST ngoài kỹ năng hướng dẫn cần phải có kiến thức chuyên sâu, hiểu biết tường tận về quy luật tự nhiên, phải là người diễn giải môi trường, giải thích về thiên nhiên cho du khách… do đó làm HDV DLST khó hơn du lịch thông thường. Ông cũng đề xuất nên tận dụng đội ngũ kỹ sư, cử nhân sinh học… đào tạo thêm nghiệp vụ du lịch để có đội ngũ HDV DLST chuyên nghiệp và xứng tầm.

Bên cạnh đó, các đại biểu cũng quan tâm tới việc hoàn thiện chính sách về sử dụng nguồn thu từ hoạt động kinh doanh phát triển DLST. Cụ thể, 25% lợi nhuận thu được sẽ được đầu tư phát triển rừng đặc dụng, 75% còn lại hỗ trợ tăng lương, thưởng cho cán bộ công nhân viên, hỗ trợ hoạt động phát triển cộng đồng dân cư vùng đệm, chi cho hoạt động tái đầu tư kinh doanh dịch vụ DLST. Chính sách góp vốn đầu tư liên doanh liên kết để phát triển cũng được các đại biểu đặc biệt quan tâm. Đồng thời chính sách về giá thuê môi trường rừng để phát triển DLST cũng được điều chỉnh 5 năm một lần theo thỏa thuận giữa BQL VQG, khu BTTN với người thuê trên cơ sở giá của Nhà nước tại thời điểm thuê; thời gian thuê không quá 50 năm…

Hồng Anh

 

Nguồn: Báo Du lịch