Hát Then Tuyên Quang và các tỉnh vùng Việt Bắc đang được chuẩn bị lập hồ sơ đề nghị UNESCO công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể thế giới cần bảo vệ khẩn cấp. Đây là cơ hội lớn để di sản văn hóa dân tộc Tày Tuyên Quang được cả thế giới biết đến.
Song cũng đặt ra đối với Tuyên Quang những thách thức không nhỏ trong việc bảo tồn, phát huy giá trị của loại hình nghệ thuật di sản văn hóa dân gian độc đáo này.
Then là một loại hình nghệ thuật văn hóa dân gian, xuất xứ từ tên gọi của tộc người Tày - Thái để chỉ một loại hình văn hóa tín ngưỡng
Dân tộc Tày ở Tuyên Quang chiếm trên 25% dân số (số dân đông sau dân tộc Kinh). Then dân tộc Tày Tuyên Quang, theo người già kể lại và sách chép ra của người đã quá cố, những người am hiểu về Then, như cố nghệ nhân Ma Thanh Cao, ở xã Tri Phú, cố nghệ nhân Hà Phan, ở xã Tân An (Chiêm Hóa), ông Nguyễn Mạnh Thẩm, ở xã Thanh Tương (Nà Hang), thì Then xuất hiện từ thời Phùng Hưng (thế kỷ thứ VIII). Trải qua năm tháng thăng trầm của các thời kỳ lịch sử, Then trở thành một loại hình nghệ thuật đặc sắc, độc đáo, tiêu biểu gắn bó sâu sắc với người Tày Tuyên Quang, bởi nó được bắt nguồn từ chính cuộc sống lao động sản xuất của đồng bào Tày và cũng bởi chính họ (người Tày) sáng tạo ra.
Trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang hầu như huyện nào (kể cả thành phố Tuyên Quang) cũng có hát Then, nhưng vùng hát Then đậm đặc, được duy trì và bảo tồn nguyên giá trị chủ yếu ở các huyện Chiêm Hóa, Nà Hang và Lâm Bình. Hát Then thường được sử dụng trong các nghi lễ: Cầu mùa, cầu yên, cấp sắc... Then Tày Tuyên Quang có hai hình thức thể hiện, đó là Then quạt và Then tính. Then quạt (cùng nhóm với Pụt - Bụt) được sử dụng trong các nghi lễ cầu yên, như: Cúng mụ, giải hạn, hát chữa bệnh... Then quạt ra đời sớm hơn Then tính. Ngôn ngữ sử dụng chủ yếu là tiếng Tày. Khi hát, người hát chỉ dùng quạt, mặc quần áo màu đỏ, khăn đỏ, đội mũ đỏ. Giai điệu Then quạt hát kéo dài, chủ yếu là âm điệu ừ, ừ, ừ... không có nhạc đệm, Then tính ra đời và phát triển trên cơ sở Then quạt, nhưng có nhạc cụ đệm là đàn tính (tính tẩu) và chùm sóc. Âm điệu trong Then tính âm điệu là ới la, ới là... (nghĩa là khát vọng giao đãi của con người với trời đất, thiên nhiên, vạn vật). Đặc biệt, âm điệu ới la được bắt đầu trước khi vào câu hát chỉ có trong Then Tày của Tuyên Quang (Then Tày Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn không có âm điệu ới la).
Nội dung hát Then Tuyên Quang được chia thành hai nhóm: Then kỳ yên và Then lễ hội. Theo thống kê chưa đầy đủ của nhóm khảo sát Bảo tàng Tuyên Quang, Then kỳ yên và Then lễ hội gồm khoảng 60 bài Then cổ, cung, phủ được sử dụng hát trong các nghi lễ. Nhóm Then kỳ yên (đồng bào Tày thường gọi là làm then) được sử dụng trong các nghi lễ: Cúng cầu yên (yên lành), cầu chúc (chúc phúc, chúc năm mới...), chữa bệnh... Then kỳ yên phải trải qua nhiều công đoạn gồm: Cung thổ công, cung phát pang (phát lễ cho họ nội, ngoại), cung thần linh, cung mồ mả, cung vua bếp (táo quân), cung tổ tiên (gia tiên), cung bắc cầu, cầu va (cái cẩu cầu va), cung mụ, cung giải hạn (me khoăn) - cầu mong tránh khỏi tai họa, phủ hội đồng, cung tam bảo, cung vua, cung khảm hải (vượt biển). Then kỳ yên bao giờ cũng tổ chức vào ban đêm yên tĩnh, khi mọi sự sống đã lắng đọng vào giấc ngủ, chỉ còn vang vọng tiếng hát của then, giúp mọi người nghe và cảm nhận từng lời hát một cách đầy đủ, trọn vẹn nhất.
Nhóm Then lễ hội là những khúc hát khích lệ tinh thần mọi người thêm phấn chấn, vui vẻ, xua tan phiền muộn, cực nhọc vất vả trong cuộc sống, lao động sản xuất để thỏa mãn ước vọng về một cuộc sống đầy đủ hơn, muôn vật sinh linh. Nhóm Then lễ hội thường được sử dụng trong các nghi lễ: Lễ cầu mùa, lễ vào nhà mới, lễ cấp sắc, lễ cốm. Then lễ hội gồm nhiều cung, phủ: Giải uế, khảm hải (vượt biển), tứ bách hoặc phủ thu quạt, pụt luông (chúa của thần nông), nhà phép, hội đồng, tam bảo, chợ tam quang, vua cha...
Ngôn ngữ - lời then, mộc mạc, giàu hình ảnh, gần gũi với cuộc sống đời thường, sử dụng ngôn từ tượng hình, tượng thanh phong phú, lối so sánh, ví von. Nội dung các khúc hát then đều toát lên tư tưởng nhân văn sâu sắc, chứa đựng tình yêu thiên nhiên (mong muốn nhân an vật thịnh, cầu cho mưa thuận gió hòa, con người mạnh khỏe, mùa màng tươi tốt...), tình yêu đôi lứa, nghĩa vợ chồng, răn dạy đạo lý làm người, ca ngợi quê hương, đất nước... giai điệu mượt mà, sâu lắng, âm hưởng mềm mại, đầm ấm, tạo cảm giác gần gũi, thiêng liêng, sức truyền cảm mạnh.
GS, TSKH Tô Ngọc Thanh, Chủ tịch Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam cho biết: “nếu gạt bỏ những yếu tố mê tín đối với việc chữa bệnh bằng hát Then (mà thực tế ngày nay cũng không còn mấy ai tin thì Then là một không gian văn hóa dân tộc, một tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian đa dạng, vừa phản ánh, vừa mô tả, vừa gửi gắm nhắn nhủ những ngọt bùi đắng cay của cuộc sống ông cha”. Vì, theo ông “có thể thấy trong Then (Then Tày nói chung và Then Tày Tuyên Quang nói riêng), không chỉ các thể thơ dân tộc, mà còn cả những biện pháp thi pháp, tu từ, ẩn dụ... của nghệ thuật ngôn từ; tìm thấy những làn điệu của tầng dân ca, dân nhạc cổ xưa nhất; những điệu múa đã song hành với hát then không biết bao năm tháng”. GS, TSKH Tô Ngọc Thanh khẳng định: “...Then là một kho tàng quý báu tàng trữ những giá trị văn học nghệ thuật ngàn đời của ông cha”.
Theo kết quả kiểm kê, khảo sát trên địa bàn tỉnh của Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch vừa rồi, để lập hồ sơ di sản hát Then đưa vào danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia cho thấy một sự thật đáng lo ngại, đó là, xu hướng hát Then đang dần bị mai một. Vì các nghệ nhân già ngày càng mất dần, lớp trẻ thì thích nhạc trẻ. Hát Then, theo cách nói của những người làm bảo tồn, bảo tàng cũng đang bị “biến đổi” mạnh. Lời Then giờ chủ yếu được đặt lại. Then cổ không còn mấy người lưu giữ. Ở Tuyên Quang, nghệ nhân nắm giữ làn điệu Then cổ không còn mấy người. Trên 40 hạt nhân văn nghệ là người dân tộc Tày làm nhiệm vụ trao truyền, duy trì hát Then ở cơ sở cũng chỉ mấy người biết hát Then cổ. Đó quả là một thách thức không nhỏ đối với Tuyên Quang trong bảo tồn, phát huy giá trị di sản hát Then, khi mà lập hồ sơ đề nghị UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể thế giới, Then cổ mới là cái tinh túy, chứa đựng “những giá trị văn học nghệ thuật ngàn đời của cha ông” cần được trưng ra thế giới.
Trước thực trạng như vậy, những năm gần đây, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã tham mưu, đề xuất một số giải pháp bảo tồn, phát huy di sản văn hóa các dân tộc, trước mắt tập trung bảo tồn, phát huy giá trị di sản hát then của dân tộc Tày với một số việc làm cụ thể như: Nghiên cứu, sưu tầm, biên soạn, xuất bản các cuốn sách, đĩa nhạc về hát Then Tày; tham mưu với UBND tỉnh để hàng năm ngành tổ chức các lớp bồi dưỡng, tập huấn hát Then cho hạt nhân văn nghệ cơ sở, mời các nghệ nhân đến truyền dạy các làn điệu Then cổ; phối hợp với huyện, xã có phong trào hát Then, có nghệ nhân tâm huyết với các làn điệu Then cổ tổ chức mở lớp truyền dạy cho thế hệ trẻ. Cách làm này khá thành công ở xã Tân An (Chiêm Hóa), nơi có hai anh em nghệ nhân Hà Phan, Hà Thuấn, người dành cả đời mình cho việc bảo tồn, phát huy giá trị hát Then của dân tộc mình.
Hiện ngành Văn hóa cũng đang xây dựng cơ chế chính sách khuyến khích, ưu đãi, tôn vinh nghệ nhân, người có công, tâm huyết lưu giữ, truyền dạy nghệ thuật văn hóa dân tộc thiểu số trình UBND tỉnh. Đồng thời, ngành cũng định hướng cho Đoàn Nghệ thuật dân tộc nghiên cứu, sưu tầm chất liệu văn hóa dân gian các dân tộc, trong đó, có hát - múa then để xây dựng chương trình, tiết mục biểu diễn phục vụ nhân dân. Đây vừa là nhiệm vụ, vừa nhằm khơi dậy trong đồng bào các dân tộc niềm tự hào, trân trọng di sản văn hóa dân tộc, ý thức hơn trong việc bảo tồn giá trị di sản văn hóa dân tộc mình. Cùng với đó, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch quy định trong chương trình của Đội văn nghệ quần chúng các xã, nhất thiết phải có ít nhất 2 tiết mục được khai thác từ những làn điệu dân ca, dân nhạc, múa... truyền thống dân tộc.
Công tác bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa hát Then của dân tộc Tày ở Tuyên Quang, không thể là việc một sớm, một chiều; và cũng không chỉ là việc của riêng ngành văn hóa. Cách bảo tồn, gìn giữ và phát huy giá trị di sản văn hóa các dân tộc nói chung và di sản văn hóa hát Then dân tộc Tày nói riêng, trước hết và tốt nhất vẫn là việc tự giữ gìn, phát huy trong cộng đồng mỗi dân tộc./.