Bên cạnh việc hoàn thiện chính sách, huy động tổng hợp các nguồn lực trong công tác bảo vệ đa dạng sinh học, Việt Nam khẳng định sự ủng hộ và đóng góp vai trò quan trọng trong nỗ lực bảo tồn đa dạng sinh học cùng cộng đồng quốc tế.
Việt Nam đã tham gia nhiều Điều ước quốc tế liên quan đến bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học (ĐDSH), cụ thể như Công ước về bảo vệ di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới (gia nhập vào năm 1987), Công ước Đa dạng sinh học (gia nhập năm 1994) và các Nghị định thư trong khuôn khổ của Công ước, Công ước Ramsar về bảo tồn các vùng đất ngập nước (Công ước Ramsar, gia nhập năm 1989), Công ước về thương mại quốc tế đối với các loài động, thực vật hoang dã nguy cấp (gia nhập năm 1994)…
Tham gia Công ước Đa dạng sinh học từ năm 1994, từ đó đến nay Việt Nam đã có nhiều nỗ lực hướng đến giải quyết các mối đe dọa về đa dạng sinh học một cách toàn diện bao gồm hoàn thiện hành lang pháp lý, tích cực hợp tác, học hỏi kinh nghiệm quốc tế, tạo điều kiện cho các cơ sở bảo tồn đa dạng sinh học trong nước phát triển cũng như tăng cường hợp tác, chỉ đạo các cơ quan, bộ ban ngành từ trung ương đến địa phương. Năm 1995 “Kế hoạch hành động đa dạng sinh học của Việt Nam” được ban hành ngay sau khi Việt Nam trở thành thành viên của Công ước đa dạng sinh học. Năm 2013, Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành Quyết định số 1250/TTg-CP phê duyệt Chiến lược quốc gia về đa dạng sinh học đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030.
Năm 2022 là năm đầu tiên Luật Bảo vệ môi trường 2020 chính thức có hiệu lực. Để ngăn chặn đà suy giảm đa dạng sinh học, ngay từ đầu năm 2022, Chính phủ đã ban hành Quyết định 149/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược quốc gia về đa dạng sinh học đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Chiến lược đã chỉ rõ các nhiệm vụ cụ thể để thực hiện mục tiêu bảo tồn cấp quốc gia và đóng góp thực hiện thành công các mục tiêu toàn cầu đã được thông qua tại Khung Toàn cầu về đa dạng sinh học sau 2020. Chiến lược nhấn mạnh chú trọng tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật, tăng cường năng lực của các tổ chức, nhân lực làm công tác bảo tồn đa dạng sinh học từ Trung ương đến địa phương.
Theo đó, từ nay đến năm 2030, hệ thống chính sách, pháp luật sẽ được rà soát đảm bảo tính hệ thống, thống nhất và cập nhật những yêu cầu mới nhằm thực hiện các cam kết quốc tế và thực tiễn Việt Nam; nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về đa dạng sinh học; thực hiện các chính sách ưu đãi, hỗ trợ cho các cán bộ làm công tác bảo tồn ở vùng sâu, vùng xa tại các khu bảo tồn thiên nhiên.
Việt Nam đang triển khai đồng bộ các giải pháp nhằm thực hiện những cam kết quốc tế về bảo tồn đa dạng sinh học.
Tại Hội nghị lần thứ 15 các bên tham gia Công ước Đa dạng sinh học cuối năm 2022, Việt Nam cùng hơn 190 quốc gia thành viên đã thông qua Khung Đa dạng sinh học toàn cầu Côn Minh - Montreal (GBF), nhằm định hướng công tác bảo tồn thiên nhiên và ĐDSH trên toàn cầu đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050. GBF đã đề ra mục tiêu khẩn trương đảo ngược lại quá trình mất ĐDSH, bằng cách thúc đẩy các quốc gia gấp rút triển khai các nội dung phù hợp với bối cảnh của quốc gia mình.
Thông tin từ Cục Bảo tồn đa dạng sinh học cho biết, đến năm 2023 cả nước đã thành lập 178 khu bảo tồn thiên nhiên, trong đó có 34 vườn quốc gia; 59 khu dự trữ thiên nhiên; 23 khu bảo tồn loài và sinh cảnh; và 62 khu bảo vệ cảnh quan. Tính đến nay, Việt Nam có 9 khu được công nhận là khu Ramsar; 11 khu Dự trữ sinh quyển thế giới được UNESCO công nhận; 12 Vườn di sản ASEAN - đứng đầu khu vực; 1 vùng chim nước di cư quan trọng quốc tế tuyến đường bay Úc - Đông Á (EAAFP).
Diện tích rừng ngày càng tăng lên, nếu như năm 1995 (ngay sau khi Việt Nam gia nhập Công ước ĐDSH), độ che phủ rừng chỉ đạt 28,2% thì đến năm 2022, độ che phủ đã lên tới 42,02%. Đặc biệt, năm 2021, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Đề án “Trồng một tỷ cây xanh giai đoạn 2021 - 2025” nhằm góp phần bảo vệ môi trường sinh thái, cải thiện cảnh quan và ứng phó với biến đổi khí hậu, phát triển kinh tế xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống người dân và sự phát triển bền vững của đất nước...
Trong năm 2022, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 04/CT-TTg, ngày 17/5/2022 của Thủ tướng Chính phủ về một số nhiệm vụ, giải pháp cấp bách để bảo tồn các loài chim hoang dã, di cư tại Việt Nam, nhằm bảo tồn các loài chim hoang dã, di cư tại Việt Nam cũng như thực hiện các cam kết Đối tác Đường bay chim nước di cư tuyến Úc - Đông Á (EAAFP), được đối tác quốc tế đánh giá rất cao.
Trong Chiến lược quốc gia về đa dạng sinh học đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050, nội dung bảo vệ, bảo tồn các loài hoang dã, đặc biệt là các loài hoang dã nguy cấp, là một trong những trọng tâm. Chiến lược cũng đặt ra những chỉ số rất cụ thể như đến năm 2030 phải cải thiện được tình hình của tối thiểu là 10 loài đang bị đe dọa; không có thêm các loài nguy cấp nào bị tuyệt chủng… Chiến lược cũng đề ra các nội dung chủ yếu để thực hiện, thúc đẩy công tác bảo tồn các loài hoang dã, đặc biệt là các loài động vật hoang dã nguy cấp như điều tra, đánh giá và liên tục cập nhật và công bố danh mục các loài nguy cấp, quý hiếm để có biện pháp bảo tồn.
Hiện nay, Chính phủ đang trong quá trình thẩm định Quy hoạch Bảo tồn đa dạng sinh học quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Lần đầu tiên công tác bảo tồn ĐDSH được tiếp cận dưới góc độ quy hoạch quốc gia, mang tính toàn diện, bao trùm. Quy hoạch nhằm mục gia tăng diện tích, phục hồi, đảm bảo tính toàn vẹn và kết nối các hệ sinh thái tự nhiên; quản lý bảo tồn hiệu quả các loài hoang dã, các nguồn gen quý hiếm; xây dựng và phát triển hệ thống khu bảo tồn đa dạng sinh học, khu vực đa dạng sinh học cao, cảnh quan sinh thái quan trọng, vùng đất ngập nước quan trọng góp phần ứng phó với biến đổi khí hậu và phát triển bền vững đất nước.
Cụ thể, đến năm 2030 diện tích các khu bảo tồn trên cạn đạt gần 3 triệu héc-ta (tương đương 9% diện tích đất liền), tăng diện tích các khu bảo tồn biển, ven biển đạt 3-5% diện tích tự nhiên vùng biển quốc gia. Số khu bảo tồn tăng từ 178 lên 256 đơn vị, trong đó thúc đẩy các khu bảo tồn đất ngập nước và biển. Đồng thời, thành lập các cơ sở nuôi trồng loài nguy cấp, quý hiếm cần bảo vệ, tăng cường năng lực cứu hộ động vật hoang dã; lưu giữ bảo quản giống cây trồng, vật nuôi, vi sinh vật và nấm đặc hữu, nguy cấp, quý hiếm, có giá trị đặc biệt về khoa học, y tế, kinh tế, sinh thái, cảnh quan, môi trường hoặc văn hóa-lịch sử.
Các khu đất ngập nước với đa dạng sinh học đặc trưng đang được các địa phương đẩy mạnh triển khai các giải pháp bảo tồn.
Ngày 22/5 hàng năm được Liên Hợp Quốc chọn là Ngày Quốc tế đa dạng sinh học với mục tiêu nâng cao nhận thức, trách nhiệm và hành động về đa dạng sinh học. Ngày Quốc tế đa dạng sinh học năm 2023 được Liên Hợp Quốc phát động với chủ đề "Từ thỏa thuận đến hành động: Phục hồi đa dạng sinh học" nhằm kêu gọi Chính phủ các nước nhanh chóng biến các cam kết thành hành động để ngăn chặn và đẩy lùi sự suy giảm đa dạng sinh học, hướng tới xây dựng một tương lai "Sống hài hòa với thiên nhiên" vào năm 2050.
Hưởng ứng Ngày Quốc tế đa dạng sinh học năm 2023, Bộ Tài nguyên và Môi trường đề nghị các cơ quan, đơn vị tăng cường truyền thông, giáo dục, nâng cao nhận thức về đa dạng sinh học và vai trò của đa dạng sinh học trong phát triển bền vững; thay đổi hành vi và thúc đẩy lối sống hài hòa với thiên nhiên; không săn bắt và sử dụng các sản phẩm có nguồn gốc từ động vật hoang dã quý hiếm; chia sẻ công bằng, hợp ký các lợi ích thu được từ thiên nhiên: xóa đói giảm nghèo, cải thiện sinh kế bền vững cho cộng đồng.
Các cơ quan, đơn vị tổ chức xây dựng và thực hiện Kế hoạch hành động về đa dạng sinh học để triển khai thực hiện Chiến lược quốc gia về đa dạng sinh học đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050 bảo đảm phù hợp với khuôn khổ, mục tiêu của Khung đa dạng sinh học toàn cầu Côn Minh – Montreal được thông qua tại Hội nghị lần thứ 15 các bên tham gia Công ước đa dạng sinh học (CBD COP15).
Các đơn vị tiếp tục nghiên cứu và áp dụng các giải pháp dự vào tự nhiên, tiếp cận dựa trên hệ sinh thái để bảo vệ, bảo tồn, quản lý và sử dụng bền vững các hệ sinh thái nhằm giải quyết các vấn đề về biến đổi khí hậu, góp phần mang lại lợi ích về đa dạng sinh học và phúc lợi cho con người; tăng cường công tác điều tra, kiểm kê, quan trắc đa dạng sinh học, tạo dựng thông tin nền về hiện trạng đa dạng sinh học làm cơ sở cho quá trình ra quyết định về bảo tồn thiên nhiên về đa dạng sinh học; kiểm soát chặt chẽ tác động của các dự án phát triển đối với các khu vực tự nhiên về đa dạng sinh học.
Đồng thời, tiếp tục tăng cường các hoạt động để bảo tồn các loại chim hoang dã, di cư tại Việt Nam thực hiện Chỉ thị số 04/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ, đồng thời đẩy mạnh thực hiện các chương trình, kế hoạch phục hồi các hệ sinh thái tự nhiên bị suy thoái như rừng ngập mặn, rạn san hô, thảm cỏ biển và các vùng đất ngập nước quan trọng khác nhằm thực hiện có hiệu quả mục tiêu về Thập kỷ phục hồi hệ sinh thái tự nhiên của Liên hợp quốc.
Bên cạnh đó, các Bộ, ngành, địa phương cần tiếp tục củng cố và tăng cường hệ thống di sản thiên nhiên thông qua triển khai đồng bộ các quy định mới của Luật Bảo vệ môi trường 2020 và Nghị định 08/2022/NĐ-CP, trong đó ưu tiên tăng cường năng lực và nguồn lực cho quản lý và bảo vệ môi trường các di sản thiên nhiên, hướng dẫn xác lập và công nhận di sản thiên nhiên.
Thu Hương