Bà Nguyễn Thu Huyền, chuyên gia bảo tồn biển Việt Nam, nói ở Việt Nam, Tổ chức Bảo tồn Thiên nhiên Thế giới (IUCN) mới đây công bố kết quả công trình nghiên cứu về nguồn lợi kinh tế từ các khu bảo tồn biển. Theo đó, các khu bảo tồn biển không chỉ mang lại nguồn thu nhập cao hơn mà còn lâu dài và ổn định hơn rất nhiều thông qua phát triển du lịch và đánh bắt cá có tổ chức.
Ở Nha Trang, một hệ thống khu bảo tồn biển đã được xây dựng, sau nhiều năm giúp bảo vệ hệ sinh thái đa dạng sinh học bậc nhất Việt Nam, với hơn 440 loài động vật không xương sống, trong đó có nhiều loài mới được phát hiện ở Việt Nam 350 loài san hô, 300 loài cá.
Một trong số đó là khu bảo tồn biển Hòn Mun - Hòn Mun giờ đây có thể đánh giá và được xem là khu BTB có tầm vóc quốc tế vì nó có số loài tương tự như ở trung tâm thế giới về đa dạng san hô ở khu vực ấn Độ - Thái Bình Dương.
Và người ta cũng đã tìm thấy 340 trong tổng số hơn 800 loài san hô cứng trên thế giới. Các KBTB ở các nước khác đã chứng minh nguồn lợi về hải sản ở KBTB đã tăng lên rõ rệt chúng ta mong đợi nguồn lợi hải sản sẽ tăng lên nhanh chóng thông qua việc thành lập KBTB Hòn Mun.
Hiện nay, với tổng diện tích 5.175 ha mặt nước ở khu bảo tồn biển Cù Lao Chàm, các nhà khoa học đã tìm thấy 200 loài san hô, trong đó có sáu loài quý hiếm lần đầu tiên tìm thấy tại các vùng biển đảo ở nước ta. Bên cạnh đó còn có hơn 200 loài cá; 5 loài tôm hùm, 94 loài nhuyễn thể...
Tất cả đều liên quan mật thiết đến 165 ha san hô và 500 thảm cỏ biển với nhiều loại có giá trị. Ngoài ra, trên các đảo, người ta còn tìm thấy nhiều loại động vật quý hiếm, mang đậm tính đặc trưng riêng chỉ có ở Cù Lao Chàm.
Nhằm giảm thiểu sự xâm hại khá thường xuyên, nặng nề do hoạt động khai thác, đánh bắt thuỷ sản của ngư dân địa phương, ban điều hành dự án khu bảo tồn biển Cù Lao Chàm chia nơi đây thành nhiều khu vực, nhiều vùng với các chức năng riêng.
Có thể thấy hoạt động tham quan, du lịch, nghiên cứu diễn ra khá thường xuyên tại Cù Lao Chàm trong thời gian qua, đã biến hòn đảo khá cách biệt này trở nên sinh động và náo nhiệt hơn. Đời sống của cư dân được cải thiện đáng kể nhờ vào các hoạt động dịch vụ đang dần hình thành. Tuy nhiên, việc quản lý các hệ thống các khu bảo tồn biển của Việt Nam vẫn còn nhiều vấn đề bất cập.
Tại hội thảo “Định hướng Khu bảo tồn biển Việt Nam giai đoạn 2010-2020”, các nhà quản lý và chuyên gia KBTB đã chỉ ra những khó khăn cụ thể, trong đó, nguồn kinh phí hoạt động của các KBTB hiện tại chưa có, điều kiện kinh tế - xã hội người dân sống trong và xung quanh vùng bảo tồn còn nghèo, chưa đủ điều kiện bảo tồn...
Vì vậy, để cộng đồng chung tay gìn giữ, bảo tồn môi trường biển đặc biệt khi biến đổi khí hậu, nước biển dâng đang đến cận kề, bên cạnh việc tuyên truyền, vận động để thay đổi nhận thức cộng đồng, hướng về giữ gìn vào khai thác và bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản một cách bền vững cần có sự hỗ trợ của ngân sách nhà nước, kiếm nguồn tài trợ, tổ chức các hoạt động dịch vụ ít tiêu hao tài nguyên như du lịch, thể thao, tham quan...
Trong đó có việc ưu tiên xây dựng cơ chế tài chính bền vững để đầu tư xây dựng kế hoạch tài chính dài hạn từ 5 đến 10 năm; thu phí bảo tồn biển với cơ chế sử dụng thích hợp, dành 10-15% phí thu được cho hoạt động cộng đồng.
Đặc biệt, BĐKH sẽ ảnh hưởng rất lớn đến Việt Nam, thiên tai sẽ làm ảnh hưởng đến các hệ sinh thái biển, biến động chủng loại, quần đàn và di cư cá biển, có khả năng làm thay đổi các bãi cá và ngư trường truyền thống tại các KBTB hiện có.
Nhiệt độ trên bề mặt nuớc biển ấm lên, nồng độ muối thay đổi sẽ làm nguy hại đến các rạn san hô, các thảm thực vật ở các khu vực bảo tồn. Các bãi cá nổi, cá đáy ở khu vực tuyến bờ và lộng có xu hướng ra xa dần; mùa vụ cá cơm, cá ồ, cá thu, cá nục từ tháng 3 đến tháng 5 hàng năm tại các ngư trường có thể bị thay đổi và xáo trộn.
Đồng thời, nước biển dâng cao có khả năng làm thay đổi hướng của dòng chảy, có thể làm thay đổi đường di cư của một số loài thủy sản quý hiếm đi ra ngoài khu vực bảo tồn hoặc di cư mất.
BĐKH sẽ gây ra nhiều hiện tượng thời tiết bất thường như bão, nước biển dâng, triều cường, lũ lụt, lũ quét... không theo quy luật nên rất khó dự báo trước, sẽ gây thiệt hại lớn về người và tài sản cho các ngư dân sinh sống gần khu vực bảo tồn và sinh kế dựa vào các khu bảo tồn biển.
Phát triển bền vững các KBTB thích ứng BĐKH là bài toán phải giải quyết thành công cả hai thách thức là BĐKH và nghèo đói cho cộng đồng ngư dân nghề cá ven biển.
Cần sớm xây dựng các chiến lược và cơ chế sử dụng các cơ cấu tư vấn đa lĩnh vực trong quản lý các KBTB, đồng thời với việc thực hiện phân vùng đi đôi với việc phân quyền quản lý, tạo điều kiện cho ngư dân có các lợi ích khác nhau tham gia vào quá trình quản lý và sử dụng nguồn lợi thủy sản (NLTS) theo mô hình đồng quản lý.
Xây dựng giải pháp sinh kế cộng đồng, gắn trách nhiệm của người dân trong việc khai thác, bảo vệ NLTS và bảo vệ môi trường trong việc quản lý khai thác trong các khu vực bảo tồn.
Việc xác định vị trí các khu vực bảo tồn và xây dựng KBTB cũng có thể tránh được hiện tượng bất thường của thời tiết và nên xây dựng các khu bảo tồn biển nơi có nhiều hệ sinh thái rạn san hô.