Theo đề án Quy hoạch phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn 2030, giai đoạn 2015-2020 vùng Đồng bằng sông Cửu Long sẽ thu hút được 26% lượng khách quốc tế đến Việt Nam (năm 2010 thu hút được 8%). Để làm được điều này, các ban ngành cũng như chính quyền địa phương phải cùng nhau giải quyết những vướng mắc, tìm ra hướng phát triển đúng đắn trong thời gian tới.
Tháo gỡ những rào cản
Đồng bằng sông Cửu Long có điều kiện địa lý thuận lợi cho việc tiếp cận các thị trường du lịch cả trong nước, khu vực và quốc tế. Ngoài ra, Đồng bằng sông Cửu Long còn là vùng có những nét độc đáo về thiên nhiên, sông nước. Tuy nhiên, những năm qua, ngành du lịch của vùng chưa thật sự phát huy được thế mạnh.
Theo ông Nguyễn Phong Quang, Phó Trưởng ban Thường trực Ban chỉ đạo Tây Nam Bộ, lâu nay du lịch vùng Đồng bằng sông Cửu Long đang đứng trước những thách thức như hệ thống kết cấu hạ tầng còn hạn chế, các cơ sở vật chất kỹ thuật và chất lượng của lực lượng lao động chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển.
Đặc biệt, hạ tầng giao thông, nhất là giao thông đường thủy còn chậm phát triển, trong khi lợi thế du lịch của vùng là dựa vào sông nước và biển đảo.
Ông Nguyễn Văn Tuấn, Tổng Cục trưởng, Tổng cục Du lịch nhận định cần tập trung giải quyết bốn vấn đề cấp bách để tạo động lực phát triển cho du lịch Đồng bằng sông Cửu Long. Vấn đề đầu tiên là xây dựng hạ tầng du lịch (giao thông, nhà hàng, khách sạn...).
Thứ nhất, để có thể phát triển cơ sở hạ tầng phục vụ cho việc phát triển kinh tế nói chung, du lịch nói riêng, không chỉ trông chờ vào nguồn ngân sách nhà nước, mà cần khai thông các nguồn vốn từ các nhà đầu tư, các doanh nghiệp làm du lịch. Do đó, Nhà nước cần có những cơ chế chính sách mới tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tham gia.
Vấn đề thứ hai về sản phẩm du lịch. Do các tỉnh có đặc thù chung về cơ sở địa lý nên sản phẩm du lịch thường trùng lắp, do vậy, đề án quy hoạch cần có sự phân chia các không gian du lịch dựa trên sự tương đồng về lịch sử, văn hóa.
Thêm vào đó, Đồng bằng sông Cửu Long đang được biết đến là vựa lúa lớn nhất của cả nước và thế giới. Những hoạt động trong sản xuất lúa gạo đã hình thành nên không gian văn hóa, cũng như toàn bộ sinh hoạt riêng của con người Việt Nam vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Không gian đó sẽ đem đến cho khách du lịch những trải nghiệm khác biệt so với những vùng trồng lúa ở Bắc Bộ, Trung Bộ...
Thứ ba là vấn đề về liên kết quảng bá xúc tiến. Nếu các tỉnh "đơn thương độc mã" tham gia hội chợ và xúc tiến du lịch ở nước ngoài như hiện nay thì không thể tạo ra được ấn tượng và hiệu quả. Do vậy, các đơn vị làm du lịch mỗi tỉnh nên lập một quỹ kinh phí chung cho hoạt động xúc tiến đầu tư du lịch của vùng.
Thứ tư, không thể trông chờ nguồn nhân lực được đào tạo ở các thành phố lớn mà Đồng bằng sông Cửu Long nên hình thành những trung tâm đào tạo nhân lực riêng.
Phát triển theo hướng bền vững, chất lượng
Theo số liệu thống kê, năm 2010, vùng Đồng bằng sông Cửu Long đón trên 1,2 triệu lượt khách quốc tế và gần 5 triệu lượt khách nội địa. Tuy nhiên, con số này không đồng nghĩa với việc Đồng bằng sông Cửu Long đón được 1/4 khách quốc tế đến Việt Nam, bởi thực tế, số khách ghé thăm Đồng bằng sông Cửu Long dừng lại ở Đồng bằng sông Cửu Long trung bình dưới một ngày.
Nếu so sánh mỗi khách quốc tế đến Việt Nam trung bình lưu trú khoảng 10,5 ngày, thì một khách du lịch quốc tế đến Đồng bằng sông Cửu Long chỉ chiếm được 1/10 số ngày lưu trú.
Vùng cũng chỉ thu hút được một bộ phận khách nội địa đến Thành phố Hồ Chí Minh sau đó đi tiếp Đồng bằng sông Cửu Long. Phần lớn du khách là khách địa phương luân chuyển giữa các tỉnh trong khu vực.
Thực tế, muốn phát triển du lịch, phải đặc biệt chú trọng vấn đề thời gian lưu trú và chi tiêu của khách. Vì vậy, muốn nâng cao khả năng cạnh tranh với các vùng du lịch khác, ngành du lịch Đồng bằng sông Cửu Long không thể không tăng cường chất lượng các dịch vụ du lịch.
Ngành du lịch Đồng bằng sông Cửu Long đã đi qua một thập kỷ (giai đoạn 2000-2010) và đang ở giai đoạn là gạch nối cho thập kỷ tiếp theo (giai đoạn 2011-2020). Thời gian qua, ngành du lịch đã tạo ra được một số kết quả tích cực trên mọi phương diện về quy hoạch, xây dựng phát triển cơ sở hạ tầng; xây dựng cơ sở vật chất về dịch vụ lưu trú, phát triển sản phẩm các địa điểm du lịch, đội ngũ nguồn nhân lực và các yếu tố liên kết khác. Tuy còn nhiều hạn chế nhưng bước đầu du lịch vùng đã có một nền tảng tương đối đồng bộ để bắt đầu bước vào giai đoạn mới./.
Lan Phương