Đánh giá
mức độ tổn thương tài nguyên và môi trường (TN&MT) biển, từ đó có những biện
pháp dự báo, phòng tránh, thích ứng và giảm nhẹ tổn thất – đó là nhiệm vụ vô
cùng quan trọng trong công tác bảo vệ và sử dụng bền vững TN&MT vùng ven biển.
Bãi
biển Sa Huỳnh
Những năm qua, tốc độ phát
triển của các ngành kinh tế dọc bờ biển nước ta ngày càng cao. Tuy nhiên, vùng
ven biển cũng là vùng dễ bị tổn thương do các hiện tượng tự nhiên cực đoan và
hoạt động của con người như giao thông vận tải biển, khai thác khoáng sản dưới
đáy biển, nuôi trồng thủy hải sản ven biển, trên biển, ô nhiễm từ đất liền, vùng
công nghiệp, đô thị ven biển... Tất cả những hiện tượng này đều gây tác động
tiêu cực đến môi trường, làm suy thoái hệ sinh thái biển, ảnh hưởng đến phát
triển kinh tế - xã hội của vùng ven biển, ảnh hưởng đến sức khỏe và đe dọa tính
mạng con người.
Các nghiên cứu về đánh giá
tổn thương TN&MT biển tại Việt Nam chỉ mới bắt đầu từ những năm cuối thế kỷ 20.
Đến nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu theo các hướng tiếp cận khác nhau
(vùng/khu vực, hệ thống tự nhiên – xã hội, cộng đồng, tài nguyên...) và ở các
khu vực khác nhau. Các nghiên cứu đều dựa trên nguyên tắc chung về đánh giá tổn
thương là xác định khả năng bị tổn thương của một hệ thống (tự nhiên, kinh tế -
xã hội...) khi gặp phải những tai biến (tự nhiên, nhân tạo), xác định khả năng
chống chịu, phục hồi của hệ thống và đề xuất các biện pháp giảm thiểu tổn
thương. Nghiên cứu đánh giá tổn thương tại Việt Nam mặc dù mới được chú ý đến
nhưng đã có rất nhiều dự án được triển khai bằng nguồn vốn trong và ngoài nước.
Kết quả của những dự án đã và đang phục vụ thiết thực cho công tác đánh giá tổn
thương tại Việt Nam. Điển hình là Dự án 2762 về “Điều tra, đánh giá mức độ tổn
thương TN&MT, khí tượng thuỷ văn biển Việt Nam; dự báo thiên tai, ô nhiễm môi
trường tại các vùng biển; kiến nghị các giải pháp bảo vệ” và một số dự án thuộc
Chương trình 47 về xây dựng cơ sở dữ liệu TN&MT biển, điều tra cơ bản về khí
tượng, thủy văn, TN&MT biển...
Mặc dù đã có nhiều đầu tư
cho công tác đánh giá tổn thương TN&MT biển, nhưng còn nhiều mảng chưa được quan
tâm đầu tư, có những mảng đã được đầu tư nhưng chưa đầy đủ hoặc chồng chéo. Do
vậy, một mặt cần xác định rõ những mảng chưa được quan tâm đầu tư, từ đó tăng
cường hợp tác với các nhà tài trợ nhằm điều phối hoạt động đầu tư sao cho việc
sử dụng nguồn vốn một cách hiệu quả, có trọng tâm, đạt được kết quả cao nhất.
Hiện có nhiều dự án, chương trình về đánh giá tổn thương TN&MT biển đã và đang
được thực hiện nhưng vấn đề đánh giá còn gặp nhiều khó khăn. Tuy cùng dựa trên
một nguyên tắc, nhưng do tính rời rạc và đơn lẻ của các nghiên cứu, nên các yếu
tố của một nghiên cứu đánh giá tổn thương còn chưa được đề cập đầy đủ. Bên cạnh
đó, mỗi phương pháp hoặc cách tiếp cận khác nhau đòi hỏi dữ liệu đầu vào khác
nhau và đưa ra các kết quả khác nhau (như đánh giá rủi ro môi trường, đánh giá
tổn thương do biến đổi khí hậu, đánh giá tổn thương do ô nhiễm môi trường, đánh
giá tổn thương tổng hợp). Điều này dẫn tới sự không thống nhất về định nghĩa
đánh giá tổn thương TN&MT biển, khó khăn trong việc lựa chọn phương pháp đánh
giá phù hợp và xây dựng các chuẩn dữ liệu một hệ thống phương pháp luận chung,
đạt chuẩn quốc tế phục vụ công tác dự báo, phòng tránh, thích ứng và giảm nhẹ
tổn thương...
Hợp tác quốc tế trong lĩnh
vực điều tra, đánh giá mức độ tổn thương TN&MT biển Việt Nam và dự báo thiên
tai, ô nhiễm môi trường biển phải đặt trong tổng thể Chiến lược biển đến năm
2020, Chương trình nghị sự của Chính phủ Việt Nam về phát triền bền vững (Agenda
21); đồng thời phải phù hợp với chủ trương của Bộ Chính trị và định hướng của
Chính phủ về đường lối, chính sách của Việt Nam… Hợp tác quốc tế nhằm tận dụng
tối đa những kinh nghiệm, tri thức trong và ngoài nước; phát huy vai trò quan hệ
quốc tế để kêu gọi các cơ quan, tổ chức, cá nhân, các chuyên gia có uy tín đóng
góp vào việc bảo vệ TN&MT Việt Nam. Hợp tác quốc tế trong lĩnh vực điều tra,
đánh giá mức độ tổn thương TN&MT biển Việt Nam và dự báo thiên tai, ô nhiễm môi
trường biển cần được thực hiện trên cơ sở kết hợp nội lực trong nước với các
nguồn lực hỗ trợ từ nước ngoài, cả về tài chính và kỹ thuật. Dù ở dạng nào, viện
trợ không hoàn lại, cho vay phát triển, viện trợ một phần, đều phải được sử dụng
một cách hiệu quả theo đúng “Cam kết Hà Nội”...
Khoa Thanh