Ứng phó là vấn đề sống còn
Biến đổi khí hậu là thách thức nghiêm trọng nhất đối với toàn nhân loại, ảnh hưởng sâu sắc và làm thay đổi toàn diện đời sống xã hội toàn cầu như năng lượng, nước, lương thực, xã hội, việc làm, chính trị, ngoại giao, kinh tế, thương mại. Là một trong những nước chịu ảnh hưởng nặng nề nhất, Việt Nam coi ứng phó với biến đổi khí hậu là vấn đề có ý nghĩa sống còn. Bởi nhiệt độ tăng, mực nước biển dâng sẽ gây ngập lụt, nhiễm mặn, nguồn nước ảnh hưởng đến nông nghiệp, gây rủi ro lớn đối với công nghiệp và các hệ thống kinh tế-xã hội trong tương lai.
Sự hiện hữu của biến đổi khí hậu ở Việt Nam đã và đang trở nên rõ ràng hơn bao giờ hết. Minh chứng là từ năm 1960 đến nay, nhiệt độ trung bình năm đã tăng khoảng 0,5 độ C, mực nước biển đã dâng khoảng 20cm. Đặc biệt, hiện tượng El Nino và La Nina ngày càng tác động mạnh mẽ đến thời tiết Việt Nam, gây ra bão, lũ và hạn hán ngày càng khốc liệt. Đây chính là nguy cơ đe dọa đến mục tiêu xóa đói giảm nghèo, cho việc thực hiện mục tiêu thiên niên kỷ và sự phát triển bền vững của đất nước.
Do đó, ứng phó với biến đổi khí hậu của Việt Nam phải gắn liền và hướng tới phát triển bền vững, dựa trên nền kinh tế cácbon thấp và tăng trưởng xanh, tận dụng các cơ hội để đổi mới, nâng cao năng lực cạnh tranh và sức mạnh quốc gia; tiến hành đồng thời giảm thiểu phát thải khí nhà kính và thích ứng với biến đổi khí hậu, trong đó thích ứng ở những thập kỷ đầu thế kỷ 21 phải là trọng tâm.
Trong ứng phó với biến đổi khí hậu các giải pháp phải có tính tích hợp, hệ thống, đồng bộ, liên ngành, liên vùng, kết hợp giữa toàn cầu và quốc gia, ưu tiên trọng tâm, trọng điểm, phù hợp với từng giai đoạn; cân nhắc đầy đủ trên cơ sở khoa học, hiệu quả kinh tế và tính đến các yếu tố rủi ro, bất định của biến đổi khí hậu, hài hòa giữa lợi ích các bên; kết hợp các giải pháp kỹ thuật và các giải pháp mang tính xã hội, văn hóa; kết hợp giữa kiến thức khoa học và tri thức bản địa.
Các nhiệm vụ trọng tâm
Trong Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu đến năm 2050 và tầm nhìn đến năm 2100, nhiệm vụ cấp bách nhất là lập bản đồ ngập lụt tương ứng với các kịch bản về nước biển dâng, điều chỉnh quy hoạch thủy lợi vùng Đồng bằng sông Cửu Long, Đồng bằng sông Hồng; triển khai các giải pháp chống xâm nhập mặn hiệu quả cho các vùng cửa sông để đảm bảo ổn định phát triển kinh tế, kết hợp với củng cố nâng cấp hệ thống đê sông, đê biển ở các đoạn xung yếu nhất, các dự án chống ngập cho các thành phố, đô thị lớn.
Mặt khác, xây dựng hệ thống giám sát biến đổi khí hậu và nước biển dâng với độ chính xác cao, gắn với hệ thống thông tin địa lý, thông tin viễn thám thành một bản đồ rủi ro thiên tai, rủi ro khí hậu và nước biển dâng phục vụ công tác hoạch định chính sách, các hoạt động thích ứng từ Trung ương đến địa phương.
Bên cạnh việc nghiên cứu xác định và từng bước triển khai các giải pháp cụ thể để phòng chống hiệu quả thiên tai, lũ quét và sạt lở đất ở miền núi. Cần đẩy mạnh hơn nữa tiến độ thực hiện các dự án trồng rừng, tái trồng rừng, khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào trồng rừng kinh tế. Phấn đấu đến năm 2020 thiết lập, quản lý, bảo vệ, phát triển và sử dụng bền vững 16,24 triệu ha đất được quy hoạch cho lâm nghiệp, nâng tỷ lệ đất có rừng lên 47%, quản lý bền vững và có hiệu quả 8,4 triệu ha rừng sản xuất, 5,68 triệu ha rừng phòng hộ và 2,16 triệu ha rừng đặc dụng; GDP của ngành lâm nghiệp đạt khoảng 2-3% GDP quốc gia.
Hoàn thành xây dựng các chương trình chiến lược năng lượng quốc gia trung và dài hạn và các chương trình đặc biệt cho các ngành quan trọng như than, dầu khí, năng lượng tái tạo, năng lượng hạt nhân nhằm đảm bảo cung cấp năng lượng ổn định và phát triển năng lượng sạch về lâu dài. Thực hiện rà soát, điều chỉnh thích hợp, có cơ sở khoa học các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch tổng thể phát triển kinh tế-xã hội quốc gia, các bộ, ngành, địa phương và hoàn thành vào năm 2015.
Hiện đại hóa hệ thống quan trắc và công nghệ dự báo khí tượng thủy văn bảo đảm cảnh báo, dự báo sớm các hiện tượng khí hậu cực đoan. Đến năm 2015 phát triển mạng lưới quan trắc khí tượng thủy văn đồng bộ, có mật độ trạm tăng ít nhất 50% so với hiện nay và tự động hóa 75% số trạm. Nâng thời hạn dự báo bão, áp thấp nhiệt đới lên 72 giờ, giảm 50% thiệt hại về người do các hiện tượng khí hậu cực đoan gây ra so với trung bình năm 1990-2000.
Giải pháp thực hiện Chiến lược
Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Phạm Khôi Nguyên khẳng định để thích ứng với biến đổi khí hậu, việc đầu tiên là phải đảm bảo các nguồn lực tài chính. Theo đó, ngân sách nhà nước tăng mức đầu tư cho công tác này, nhất là đầu tư cho các dự án ứng phó cấp bách được triển khai có trọng tâm, trọng điểm đạt hiệu quả cao khắc phục tác động của biến đổi khí hậu. Đi đôi với chú trọng thu hút nguồn vốn từ hỗ trợ phát triển ODA, các cơ chế tài chính quốc tế phù hợp cho các dự án ứng phó với biến đổi khí hậu, ưu tiên sử dụng nguồn vốn ODA không hoàn lại trong việc nâng cao năng lực, chuyển giao công nghệ và kinh nghiệm quản lý.
Xây dựng những các cơ chế khuyến khích, huy động các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp trong và ngoài nước tham gia cung cấp tài chính cho ứng phó với biến đổi khí hậu. Tăng cường sự tham gia của toàn hệ thống chính trị trong tổ chức chỉ đạo, phối hợp liên ngành về thích ứng và giảm nhẹ phát thải khí nhà kính; hoàn thiện hệ thống thể chế tạo điều kiện cho người dân tham gia vào quá trình xây dựng văn bản pháp luật, lập quy hoạch, kế hoạch, quản lý và giám sát việc thực hiện Chương trình, dự án về biến đổi khí hậu tại các địa phương.
Nâng cao năng lực, vị trí, vai trò của Việt Nam trong đàm phán quốc tế về biến đổi khí hậu. Đẩy mạnh hợp tác với các nước trong khu vực và trên thế giới trong quá trình thực hiện Công ước khung của Liên hợp quốc về Biến đổi khí hậu, Nghị định thư Kyoto và các thỏa thuận, hiệp định quốc tế khác có liên quan; tích cực, chủ động, sáng tạo xây dựng các thỏa thuận, các hiệp định hợp tác quốc tế mới về thích ứng với biến đổi khí hậu và giảm nhẹ phát thải khí nhà kính...